Tập 108 : Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên
Bạch Thoại Phật Pháp Bài Giảng Video | 17/10/2020
Tập 108 : Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên
Bạch Thoại Phật Pháp Bài Giảng Video | 17/10/2020
Chào các bạn, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về «Bạch Thoại Phật Pháp».
Kinh Phật là lương thực tinh thần của chúng ta, vì vậy học Phật thì phải học để hiểu kinh Phật. Kinh Phật dạy rằng, Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên là những giáo lý căn bản cho người bắt đầu học Phật, cho nên phải hiểu về Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên. Thật ra chính là giảng về nghiệp cảm duyên khởi, nghiệp mà chúng ta bắt đầu gieo, có cái duyên phận này chính là mười hai nhân duyên, nói rõ cho chúng sinh chúng ta ở trên thế gian này vì sao lại luân hồi trong thế gian, và phải làm thế nào để xuất ly thế gian. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành Phật, đạo lý Phật giáo ban đầu mà Ngài giảng cho các đệ tử chính là Pháp Tứ Diệu Đế. Mọi người đều phải hiểu Tứ Diệu Đế là gì, vì một trong những lý luận cơ bản nhất của Phật chính là Tứ Diệu Đế.
“Đế” (谛) thực ra chính là chữ “đế” trong “chân đế” (真谛), có nghĩa đây là một chân đế. “Tứ Diệu Đế” (四谛), bốn điều này là chân đế tuyệt đối, là chân lý tuyệt đối. Tứ Diệu Đế chính là chỉ Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế. Khổ, đó là điều không thể cưỡng lại trong cuộc đời, khổ trong đời người chính là sinh, lão, bệnh, tử. Tập Đế chính là tại sao lại tập hợp những cái nhân của khổ nạn này, rốt cuộc nguyên nhân là gì. Tập chính là tích tụ hai mươi lăm cái nhân có quả khổ. Con người có rất nhiều khổ, vô cùng khổ, tất cả chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay, từ phiền não bắt đầu bởi tham, sân, si, tạo nghiệp, tạo ra rất nhiều ác nghiệp, thì sẽ chiêu cảm quả khổ sinh tử trong tam giới.
Thực ra Tập Đế của con người chính là cho chúng ta biết, khổ đến từ đâu. Diệt chính là Niết Bàn, Niết Bàn thực ra không có nghĩa là cái chết, mà là một loại giải thoát. Mọi người nhất định phải hiểu, cái chết và giải thoát không phải là một khái niệm, chết là thể xác con người chết đi, giải thoát không có nghĩa là chấm dứt hoàn toàn, mà linh hồn của họ vẫn tiếp tục vận hành, khác với cái chết của thể xác.Vì vậy phải hiểu Diệt Đế, tức là diệt trừ hoặc nghiệp mà xa rời khổ của sinh tử : Diệt chính là muốn Niết Bàn, phải diệt đi nghiệp chướng mê hoặc của bản thân, rời khỏi cái khổ của sinh tử, chúng ta nhất định phải rời khỏi cái sinh tử này.
Đạo chính là giải thoát hoàn toàn, chính là con đường đúng đắn để thực hiện cảnh giới Niết Bàn. Một người học Phật học mãi, cuối cùng không phải là chánh đạo, thì rất có thể sẽ trở thành tà đạo. Giảng giải một cách đơn giản cho mọi người về Tứ Diệu Đế, chính là bốn loại chân lý , Đức Phật nói với chúng ta, trong Phật Pháp chính là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Còn có Thập Nhị Nhân Duyên. Bởi vì những điều này nếu giảng riêng ra thì sẽ mất rất nhiều thời gian, Sư phụ sẽ giới thiệu sơ lược cho mọi người về các mắt xích trong Thập Nhị Nhân Duyên – mười hai mắt xích có liên quan với nhau, đợi sau này có thời gian Thầy sẽ giải thích cặn kẽ hơn cho mọi người, làm thêm nhiều giải thích hơn.
Đầu tiên là Vô minh. Mọi người biết Vô minh, Vô minh chính là vô tri, không hiểu biết. Bạn biết cái gì? Bạn không biết, nên mới gây họa; vì bạn không hiểu biết, nên mới rơi vào sáu đường luân hồi; vì bạn không biết tính nghiêm trọng của sự việc này, bạn mới xảy ra chuyện.
Thứ hai là Hành. Bởi vì sau khi Vô minh thì bạn đi làm (hành), vì Vô minh mà sản sinh ra các hành vi thiện và bất thiện, v.v. Mọi người hãy nghĩ xem, thiện và bất thiện, đôi khi bản thân mình không biết. Bạn tưởng rằng đã làm một việc thiện, thực ra nó không phải là một việc thiện. Lấy một ví dụ đơn giản, vợ chồng người ta cãi nhau, bạn nói “Đối phương bắt nạt bạn như vậy, bạn ly dị với anh ta cho xong”, bạn cảm thấy là đang giúp cô ấy, thực ra bạn đang tạo ra nhân quả. Vì vậy Hành chính là những hành vi thiện và bất thiện được sản sinh ra do Vô minh.
Tiếp theo là Thức, “thức” trong ý thức, chính là sự hình thành của ý thức trước khi đầu thai và sau khi đầu thai, là hành vi của ý thức trong tâm. Mọi người đừng cho rằng một đứa bé sơ sinh trong lòng mẹ không biết gì cả, thực ra nó đã có cảm giác rồi. Chỉ cần phôi thai hình thành, linh hồn của nó được đưa vào, nó sẽ có cảm giác, cũng sẽ sản sinh ra hỉ, nộ, ái, lạc. Hành vi ý thức trong tâm sản sinh ra chính là ý thức của bạn, trước khi đầu thai và sau khi đầu thai đều sẽ có cảm giác này; khi còn ở địa phủ, cảm giác này càng mãnh liệt hơn.
Thứ tư là Danh-Sắc, tương đương với sự hình thành khái niệm về phương diện tinh thần và vật chất trước và sau khi đầu thai.
Tiếp theo là Lục Nhập. “Lục” thì mọi người đều biết – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đi vào cơ quan tư duy của bạn, như vậy cơ quan cảm giác nghe được âm thanh hay, âm nhạc, con người sẽ phấn khích, ăn được món ngon, con người đặc biệt vui vẻ. Lục Nhập này đi vào các giác quan của thế giới nội tâm của bạn – các cơ quan cảm giác.
Tiếp theo là Xúc, tức là tiếp xúc. Xúc tương đương với việc sau khi đầu thai, bạn tiếp xúc với tất cả mọi sự vật của thế giới bên ngoài. Một người sau khi đầu thai, sau khi được sinh ra, sẽ từ từ tiếp xúc với mọi sự việc ở nhân gian, sẽ biết việc này là việc tốt hay việc xấu, có thể làm, hay không thể làm, là dựa vào sự tiếp xúc. Giống như chúng ta thường nói, người với người phải dựa vào tiếp xúc, tiếp xúc rồi, cảm thấy người này tốt, bạn có thể sẽ rất thân với họ.
Thứ bảy là Thọ. Thọ là gì? Là sự cảm nhận về khổ và vui. Người này cảm thấy có khổ rồi, họ mới cảm nhận được có niềm vui; niềm vui qua đi, có rất nhiều chuyện khổ xuất hiện, họ sẽ cảm thấy đây là khổ. Đây chính là Thọ
Thứ tám là Ái. Rất nhiều nhà triết học và cả nhiều nhà văn khi viết tiểu thuyết, họ thường nói một câu: thế giới này được tạo thành bởi tình yêu (ái). Con người không thể chỉ xem Ái như một thứ tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng, tình yêu anh chị em vô cùng hẹp hòi, thực ra nó có thể trở nên rất cao thượng; nếu kéo nó xuống thấp, thì Ái trong Thập Nhị Nhân Duyên ở nhân gian thực ra chính là ái dục và dục vọng, “tôi thích món đồ này”, “tôi thích căn nhà này” và “tôi thích người này”, đều thuộc về dục vọng của Ái.
Thứ chín là Thủ. Thủ, chính là ý nghĩa đoạt lấy, thu lấy. Thủ chính là truy cầu, “tôi đi lấy việc này, lấy việc kia”. Con người thường là “tôi thích món đồ này”, “tôi đi truy cầu những danh sắc này, cái danh lợi này”, “tôi thích bông hoa này”, “tôi thích vị hội trưởng này, chủ tịch này”... những cái danh này và một số thứ mà giác quan của bạn cảm thấy rất tốt – danh-sắc, sẽ kích thích vật dục của bạn (một loại dục vọng đối với vật thể, vật phẩm). Đây chính là Thủ, bởi vì bạn sẽ đi để có được nó.
Thứ mười là Hữu. Hữu là gì? Môi trường sinh tồn trong thực tại chính là Hữu. “Bạn có không?” “Có chứ.”
Thứ mười một là Sinh. Sinh là gì? Chúng ta nói đời sau tái sinh, sinh ra rồi lại diệt độ, diệt độ rồi lại sinh ra.
Thứ mười hai là Lão-Tử. Cuộc đời con người cuối cùng sẽ có một ngày kết thúc, đây chính là Lão-Tử.
Phải hiểu Thập Nhị Nhân Duyên, chính là từ Vô minh (cái gì cũng không biết), đi suốt qua Hành, Thức, Danh-Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão-Tử, hình thành mười hai mắt xích nhân duyên, tất cả đều liên tục nối liền với nhau. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản, bạn đến thế gian này rất không hiểu biết, bạn có thể trước khi đến thế gian này chính là vô minh, vô tri, cái gì cũng không rõ ràng. Sau đó sự vô minh, không biết của bạn, sẽ sản sinh ra rất nhiều thiện và ác, vì bạn không biết đây là thiện hay ác, vô minh sản sinh ra hành vi thiện và bất thiện. Rồi tiếp theo sau đó, bạn bắt đầu có ý thức, bắt đầu chuẩn bị đầu thai, trước khi đầu thai, sau khi đầu thai, bạn biết được “sao mình cảm thấy rất ấm áp?”. Mẹ ăn một que kem, bạn ở bên trong cóng lạnh như ở trên núi băng; Khi mẹ uống một bát canh hầm nóng hổi (món ăn người Quảng Đông ưa thích), đứa trẻ trong bụng cũng cảm nhận được hơi nóng đó, đặc biệt khi có người thích dùng canh rất nóng, khái niệm về phương diện tinh thần và vật chất trước khi đầu thai này từ từ hình thành. Dần dần sau khi sinh ra, sáu cơ quan cảm giác mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bắt đầu tiếp xúc với tất cả mọi thứ của xã hội, bản thân cảm nhận được lạnh, nóng, nghe được âm thanh, rồi đến lưỡi – khi đứa trẻ đói bụng đòi bình sữa, có lúc nó khóc rất dữ, sữa vẫn chưa pha xong, đứa trẻ cứ khóc, mẹ liền lấy một cái núm giả cho vào miệng nó, lưỡi của đứa trẻ vừa chạm vào, nó liền không khóc nữa. Thực ra đó chính là một loại cảm xúc. Sau khi gây ra sự tiếp xúc, đứa trẻ sẽ cảm nhận được sự vui vẻ sau khi ăn no, nó cười; lúc khổ sở, không được ăn, đói bụng, nó sẽ có cảm nhận biểu hiện ra ngoài. Sau khi có cảm nhận, dần dần cảm thấy, lúc được mẹ ôm vào lòng thì đặc biệt vui vẻ, ái dục, dục vọng đều bắt đầu xuất hiện, tình yêu giữa người với người, loại dục vọng đó đều hiện ra. Tiếp theo là truy cầu một số danh-sắc và vật dục của nhân gian. Sau khi truy cầu thì có được nó, liền tồn tại trong môi trường này, “tôi đã sở hữu nó rồi”. Rồi lại sinh ra, sinh ra những ý nghĩ khác, “tôi còn muốn, tôi còn muốn”. Cuối cùng là cuộc đời có một ngày sẽ già chết. Thực ra đây chính là một loại luân hồi của mười hai mắt xích nhân duyên.
Kinh Phật giảng cho chúng ta, chúng ta luân chuyển trong thế gian như thế nào, xuất ly thế gian như thế nào, chẳng qua cũng là do nghiệp. Con người chúng ta ở trên thế giới này tạo nghiệt rất nhiều, phạm nghiệp rất nhiều, luân chuyển trong thế gian. Bạn chỉ cần ở đời này không chăm chỉ tu hành, đời sau trong sáu đường luân hồi sẽ lại đến nữa, gọi là luân hồi bởi nghiệp. Đây là vì bạn đã tạo nghiệp, đời sau bạn sẽ lại đến nữa. Nghiệp chính là do phiền não và vô minh. Tại sao bạn lại tạo nghiệt? Vì bạn phiền muộn, vì bạn vô minh, không hiểu biết. Bạn không hiểu biết, đi làm một việc, làm tổn thương người khác, tiếp theo đó tự rước lấy cho mình nỗi đau khổ vô tận, như vậy bạn liền sinh khởi phiền não vô minh; sinh khởi phiền não, rồi thì tạo nghiệt, tạo ra rất nhiều nghiệp; sau khi tạo rất nhiều nghiệp, có phải trả không? Đời này trả mãi trả mãi, trả không hết, vậy thì đời sau lại đến đầu thai để tiếp tục trả. Cho nên đây gọi là luân hồi tạo nghiệp.
Tạo nghiệp là do môi trường, như thế nào mới tạo nghiệp? Điều quan trọng nhất dẫn đến tạo nghiệp là tâm. Bởi vì tâm của bạn sẽ tạo ra rất nhiều nghiệp báo, người tạo nghiệp sẽ có nghiệp báo. Thuyết nghiệp báo mà Phật pháp Tiểu thừa nói chính là giảng về nhân quả duy tâm. Bởi vì tâm của con người sẽ tạo nghiệt, tạo nghiệp, vậy thì nghiệp báo của bạn chính là bắt đầu từ tâm, gọi là thuyết nghiệp báo. Đây chính là nền tảng tư tưởng cơ bản của Phật giáo, chính là nền tảng của việc học Phật. Tam giới duy tâm, chỉ nghiệp báo của tam giới, nghiệp đến sẽ có báo ứng, báo ứng rồi lại tạo nghiệp, tạo nghiệp rồi lại có nghiệp báo... tại sao sinh sinh tử tử không thể thoát ly khỏi những nghiệp báo này?
Bởi vì tâm của bạn, bạn không cam tâm. Đây chính là lý do tại sao một vụ kiện rõ ràng đã thắng rồi, lại bị người ta kháng cáo lại, rồi lại tiếp tục kiện tụng. Bạn thắng kiện, họ kháng cáo; họ thắng kiện, bạn kháng cáo. Đây chính là do tâm của bạn tạo ra, bởi vì bạn không chấp nhận, vì bạn cảm thấy họ sai, dựa vào đâu mà họ thắng. Đây chính là sinh sinh tử tử.
Cho nên duy tâm sở tạo, vạn pháp duy thức. Tất cả mọi việc ở nhân gian đều là vì ý thức của bạn cho rằng việc này là không đúng, cho nên mới tiếp tục hành vi của mình. Ví dụ, hôm nay bạn cảm thấy việc này là bạn sai, có phải bạn sẽ không tranh cãi với người ta nữa không? Bạn cảm thấy việc này bạn đúng, có phải bạn sẽ không ngừng tranh cãi với người ta không? Người ta tìm lý do, bạn lại đi bác bỏ họ. Cho nên vạn pháp duy thức chi nhận thức tất cả, bạn bắt buộc phải nhận thức tất cả các hiện tượng của thế gian. Hôm nay mọi người đều đang nói bạn, bạn nên hiểu rằng nghiệp báo đã bắt đầu đến rồi. Vì bạn trong một thời gian dài không để ý đến người này, không để ý đến người kia, không tốt với người này, không tốt với người kia, đến khi mọi người đều ra mặt chỉ trích bạn, bạn nên dừng lại, không nên tiếp tục tìm lý do nữa, vì nghiệp báo của bạn đã đến. Rất nhiều người ngốc nghếch, đột nhiên trong cơ quan có vài người nhảy ra đấu với bạn, thực ra mọi người ở sau lưng đều đã nói về bạn rồi, hai người nhảy ra, rồi người bên cạnh hùa theo, thực ra mối quan hệ của bạn đã rất tệ rồi. Bởi vì nội tâm của bạn vẫn không chấp nhận, ý thức của bạn vẫn không chấp nhận, cảm thấy bạn đúng, như vậy liền gây ra sự phân biệt trong nội tâm.
Duy thức, là sự phân biệt của ý thức, bạn cảm thấy việc này đúng, bạn sẽ cứ chấp trước như vậy mãi. Ý thức là gì? Ý thức chính là ý nghĩa của sự phân biệt. Phải nhớ rằng, bạn có ý thức này, thực ra bạn liền có tâm phân biệt. “Tôi cho rằng người này không sửa đổi tốt được đâu”, là bạn trong tâm đã có tâm phân biệt rồi; “tôi cho rằng anh ấy nhất định sẽ sửa đổi tốt”, bạn cũng là có tâm phân biệt. Bởi vì trong tâm của bạn, ý thức “ có thể phân biệt” là tác dụng của tâm. “ Đối tượng phân biệt” là gì? Chính là đối tượng được tâm quan sát. Tâm của bạn đi quan sát sự vật này hoặc đối tượng này, tác dụng của bạn với nó, là tâm phân biệt. Phật giáo bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, tư tưởng trung tâm giảng về điều gì? Nhân quả duy tâm.
🙏🙏🙏 Trong quá trình dịch và chia sẻ Pháp , con có gì sai sót. không Đúng Lý Đúng Pháp . Con xin Chư Phật , Chư Bồ Tát , Chư Thần Hộ Pháp , Từ Bi tha thứ cho con .
🙏 Quý Phật tử thân mến !
Trong quá trình dịch thuật, có thể có những sai sót không tránh khỏi. Nếu quý Phật tử có bản dịch tốt hơn, xin vui lòng góp ý và đóng góp cho chúng tôi qua địa chỉ email: admin@pmtl.site
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự đóng góp của quý vị.♥️