KHÔNG QUÁN VÀ CỬU THỨC HỢP NHẤT

----01/04/202,  khai thị <Bạch Thoại Phật Pháp> tập 30

 

Một người tu hành cũng có phẩm chất riêng. Một người tu hành mà phẩm chất không tốt có giữ được phẩm hạnh đoan chính hay không? Nếu một người có phẩm hạnh tốt, trì tụng kinh văn một cách nghiêm túc và thành tâm, thì đó gọi là tinh tấn—người này có phẩm chất tu hành cao. Nhưng nếu họ tụng kinh một cách qua loa, niệm mà không đặt tâm vào đó, chỉ đọc cho có, thì làm sao phẩm chất tu hành có thể tốt được? Ở nhà, họ niệm kinh, dâng hương lễ Phật, nhưng khi ra ngoài, họ vẫn sống theo lối cũ, vẫn tùy ý làm theo ý mình. Ở nhà, họ có một bộ quy tắc tu tâm dưỡng tính, nhưng khi bước vào nơi làm việc hay giao tiếp bên ngoài, họ lại sống theo một bộ quy tắc khác, chẳng có chút thay đổi nào trong tâm. Như vậy, phẩm chất tu hành của người này thấp kém, và vì thế, họ không thể nào tiến gần đến Bồ-đề giác ngộ được. Người như vậy làm sao có thể đến gần Bồ-đề đây?

Mong mọi người hiểu được tánh không trong học Phật. Trong tánh Không còn bao hàm cả lòng từ bi, vì chỉ có người từ bi mới có trí tuệ. Những người không chịu từ bi với người khác, không thể tha thứ cho người khác, mỗi ngày chỉ sống trong cái tôi của chính mình, thì làm sao có trí tuệ? Trí tuệ từ đâu mà có? Từ bi không phải là "trống không" :  Khi chúng ta làm một việc gì đó với lòng từ bi, biết cảm ơn người khác, cảm thấy người kia đáng thương, nghĩ rằng mình nên giúp đỡ họ, nên từ bi với họ, thì trong tâm chúng ta vẫn "có" lòng từ bi. Quý vị sở hữu lòng từ bi, nhưng từ bi ấy vốn có sẵn trong bổn tính của quý vị, nên cũng có thể xem đó như tính Không. Bởi vì trong thứ thứ chín A-ma-la thức của quý vị vốn dĩ đã chứa đựng Phật tính từ bi. Khi đã có lòng từ bi, làm sao có thể không có trí tuệ? Khi quý vị đã thực hành đại từ đại bi của Bồ Tát, thì đại trí đại tuệ của quý vị cũng sẽ khởi sinh. Nhiều người nghĩ rằng: "Chẳng phải trong tâm tôi đã có lòng từ bi rồi sao? Nhưng tôi lại không có tánh Không."

Đúng vậy! Bởi vì lòng từ bi có thể hòa hợp với Phật tính trong tầng thức thứ chín A-ma-la thức, khiến quý vị không còn thấy rõ lòng từ bi nữa. Nhưng thực ra, trong tánh Không của quý vị đã có sẵn yếu tố từ bi rồi, quý vị không cần phải cố gắng nghĩ “Tôi phải từ bi” và đặt nó vào tàng thức thứ tám. Đối với nhà Phật mà nói, tại sao “Không” và “Có” lại là một? Chính là vì lý do này. Nếu quý vị là một người tốt, từ nhỏ đã là người tốt, bản chất vốn thiện lương, thì những việc quý vị làm chắc chắn cũng sẽ là việc thiện. Mà việc thiện chắc chắn phải do người thiện làm, đúng không? Quý vị có thể nói: “Tôi đã làm rất nhiều việc tốt, nhưng tôi không có cảm giác gì cả, bởi vì tôi chỉ đơn giản là đang làm việc tốt mà thôi.” Như vậy, đó có phải là “tánh Không” không? Vì quý vị là người tốt nên việc quý vị làm đều là việc thiện, đó chính là Không. Nhưng quý vị có thực sự đang làm việc thiện không? Có! Vậy “Có” và “Không” chẳng phải là một sao? Vậy nên rất nhiều người đã không hiểu rõ điều này, đây cũng chính là lý do tại sao trong Phật pháp thường nói về “Không” và “Vô.” Rõ ràng là có, tại sao lại nói là không? Chính là vì đạo lý này.

Khai ngộ hay chưa khai ngộ cũng đều là "không vô". Quý vị có thể nói rằng người này đã khai ngộ, người kia chưa khai ngộ, nhưng trong mắt Sư phụ, tất cả chúng sinh đều là những chúng sinh đã khai ngộ, đều là những chúng sinh có duyên, vì Đức Phật đã dạy rằng: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính.”

Quý vị có Phật tính, nên một ngày nào đó, chắc chắn quý vị sẽ khai ngộ, chỉ là bây giờ quý vị chưa khai ngộ mà thôi. Nhưng nếu hiện tại quý vị chưa khai ngộ, liệu quý vị có thể nói rằng mình mãi mãi không khai ngộ không? Giống như một đứa trẻ—nó có phải là con người không? Đương nhiên là con người! Khi lớn lên, nó sẽ trở thành một người trưởng thành. Cũng vậy, hôm nay tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, đều có lòng từ bi của Phật. Vì thế, khai ngộ cũng là "không vô". Khi quý vị khai ngộ, khi quý vị thực sự hiểu thấu, quý vị sẽ nhận ra rằng mọi thứ đã hòa vào chính mình. Đó chính là sự hợp nhất giữa Phật và con người, giữa Trời và con người, giữa Thiên – Địa – Nhân. Khi đạt đến cảnh giới đó, quý vị sẽ dần dần thực sự thấu hiểu tất cả. Thật sự thấu hiểu chính là nhìn thấu “không”, cả “không” và “có” đều là “không.” Vậy tại sao nhiều người học Phật lâu năm cuối cùng lại rơi vào trạng thái “vô sở vị” (chẳng bận tâm điều gì)? Họ nghĩ rằng: “Tôi đã đạt đến ‘không’ rồi, nên mọi thứ đều không quan trọng. Học Phật tốt hay không cũng không sao, vì cuối cùng tất cả đều là không.” Như vậy có thực sự là "Không" không? Không phải! Cái nền tảng giúp quý vị hiểu về “không” vẫn luôn tồn tại, và chính nền tảng đó là Phật tánh bên trong của quý vị .

Làm thế nào để khiến bản thân đạt được tánh Không? Hôm nay, Sư phụ muốn nói với mọi người về tín căn. Tín căn chính là điều chúng ta thường nhắc đến: Mọi công đức đều bắt nguồn từ niềm tin. Khi mỗi ngày quý vị đều làm công đức, chẳng lẽ quý vị không tin tưởng rằng mình sẽ có công đức sao? Mọi công đức đều đến từ niềm tin, quý vị phải tin tưởng! Nếu hôm nay quý vị không có niềm tin, thì dù có bố thí, cùng lắm cũng chỉ là một việc thiện mà thôi. Bố thí nhiều thì là đại thiện, bố thí ít thì là tiểu thiện. Ai cũng có thể hành thiện, “chúng thiện phụng hành", nhưng vấn đề là quý vị đã khai ngộ hay chưa? Quý vị phải có lòng tin vào Bồ Tát! Nếu quý vị chỉ làm việc thiện mà không có niềm tin, thì khi luân hồi, quý vị sẽ hưởng hết phước báo từ những việc thiện đó. Nếu đời này quý vị vô cùng siêng năng làm việc thiện, thì đời sau quý vị sẽ nhận được phước báo, có thể trở thành một người giàu có hoặc có địa vị cao, vì kiếp trước quý vị đã thành công trong việc hành thiện. Nhưng chúng ta của hôm nay thì lại khác. Chúng ta tin tưởng, chúng ta có "tín căn" – tức là gốc rễ của niềm tin. Mà gốc rễ này chính là Phật tánh trong chúng ta.

Bởi vì chúng ta tin vào Đức Phật, tin vào Bồ Tát, tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát, nên chúng ta tin rằng tất cả những gì Bồ Tát làm đều có thể chuyển hóa thành ruộng phước Phật học của Quán Thế Âm Bồ Tát. Mọi người hãy nhớ rằng, trong tâm mỗi người đều có một “mảnh ruộng”—đó chính là ruộng thức thứ tám (A Lại Da Thức) và ruộng thức thứ chín (A Ma La Thức). Vậy quý vị đang gieo trồng gì trong mảnh ruộng đó? Nếu quý vị gieo hạt giống thiện, quý vị sẽ nhận được quả thiện. Nếu quý vị gieo hạt giống ác, quý vị sẽ nhận quả ác. Vì vậy, quý vị nhất định phải tin tưởng vào điều này, thì sau này quý vị mới có thể tu thành Bồ Tát, trở thành Bồ Tát; quý vị mới có thể tu thành Phật, trở thành Phật. Do đó, tín căn vô cùng quan trọng, chúng ta nhất định phải tin tưởng đến cùng. Rất nhiều người cả đời không có đủ niềm tin, theo Sư phụ học vài năm rồi lại nghĩ: “Thế là đủ rồi, chỉ cần niệm kinh, tu tâm một chút là được.” Không được! Phải tin tưởng, phải hoàn toàn tin tưởng, phải tin tưởng một cách triệt để! Bởi vì chính nhờ có niềm tin này, Phật mới có thể thành toàn cho quý vị. Chính nhờ niềm tin này, quý vị mới sinh ra được sức mạnh tinh tấn , và khi lực tinh tấn được phát huy, Phật lực sẽ sinh khởi.

Rất nhiều người thường hỏi Sư phụ: Phật lực là gì? Phật lực chính là pháp lực. Vậy Sư phụ hỏi mọi người, Phật pháp có sức mạnh không? Pháp lực vô biên, đúng không? Ví dụ, có nhiều người đang nói đùa một cách tùy tiện. Đột nhiên, một vị Pháp sư xuất hiện, dù ngài không nói một lời nào, chỉ đứng bên cạnh quý vị —quý vị có còn dám tiếp tục nói những lời cợt nhả đó không? Pháp lực đã đến! Ngài không cần nói gì cả, nhưng trước mặt một vị Pháp sư, quý vị có dám tiếp tục nói những lời không đúng đắn không? Đây chính là pháp! Sự trang nghiêm chính là pháp. Khi quý vị có tinh tấn lực, sẽ sinh ra pháp lực, và từ pháp lực, quý vị sẽ có Phật lực.

Chúng ta cần học cách tư duy theo Trung quán khi nhìn nhận mọi sự vật trên thế gian. Trung quán nghĩa là không nên xem mọi sự vật sự việc trên thế giới này đều là “không”  Sư phụ từng nghe một câu chuyện cười: Có hai người trẻ tuổi, chàng trai rất tiết kiệm, thậm chí keo kiệt. Anh ta có học qua một chút Phật pháp. Một ngày nọ, bạn gái nói với anh ta: "Chúng ta sắp kết hôn rồi, em muốn mua cái này, cái kia." Anh ta đáp: "Nhà Phật giảng rằng tất cả đều là rỗng không, mua làm gì? Đồ dùng thiết yếu trong nhà có là đủ rồi, những thứ khác không cần thiết." Anh ta lấy lý lẽ về tánh Không làm cái cớ, nhưng đã hoàn toàn đi lệch khỏi con đường đúng đắn. Nếu bảo "Mọi thứ đều không quan trọng, nghĩ thông rồi thì tất cả đều là trống rỗng", vậy thì quý vị sinh ra đời này để làm gì? Nếu nói rằng "Sống rồi cũng phải chết thôi", vậy thì sinh ra để làm gì? Đây chính là chấp Không, là rơi vào cực đoan. Trung quán nghĩa là không nghiêng về "Không" mà cũng không chấp vào "Có", mà phải trung quán, có nghĩa là ở giữa “Có” và “Không”, đó cũng chính là sự trung lập, không thiên vị về bên nào. Vậy nên, sư phụ thường nhắc nhở quý vị: Một cái đồng hồ dù tốt đến đâu, nếu lúc chạy nhanh, lúc chạy chậm, thì có thể gọi là một cái đồng hồ tốt được không? Cũng vậy, một người tu học Phật pháp, nếu trong tâm cứ lúc nghiêng về "Không", lúc lại chấp vào "Có", thì rốt cuộc vẫn là lệch đường mà thôi.

Ít ham muốn, biết đủ, không nên có quá nhiều dục vọng, nhưng điều đó không có nghĩa là phải hoàn “rỗng không". Nhiều người học Phật thường hỏi: "Con cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ gia đình con, vậy có phải là tham lam không?" Cầu mong gia đình bình an, sống tốt hơn, chẳng phải cũng vì muốn mọi người có một cuộc sống tốt đẹp hay sao? Điều này có liên quan gì đến lòng tham? Bởi vì quý vị là một người học Phật, mà Quán Thế Âm Bồ Tát giáng thế chính là để cứu độ chúng sinh. Quý vị biết cầu nguyện Bồ Tát, biết mong mỏi cho gia đình, người thân được tốt đẹp, đó chính là một bước tiến lớn trong tu hành. Vì sao? Vì quý vị đã biết khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, đã biết dùng tâm từ bi để mong điều tốt lành cho người khác. Đây chẳng phải là sự tinh tấn sao? Những người chấp vào cực đoan sẽ nói rằng: "Ngay cả việc cầu cho gia đình mình cũng là một dạng dục vọng." Nhưng thực tế, Bồ Tát đến cõi này chính là để cứu giúp chúng sinh. Chỉ là, khi đã cầu xin rồi thì phải biết buông bỏ, không nên mãi vướng bận trong tâm. Phải học cách buông xả suy nghĩ, soi xét nội tâm của chính mình, kiểm tra nội tâm mình và tự mình quán sát. Tự mình quán sát có nghĩa là “ tự quán”, tự quán sát xem trong tâm mình rốt cuộc có Phật tánh không. Đến sau cùng, thân tâm của quý vị cũng phải buông xuống—ban đầu là có, nhưng rồi tất cả đều trở về "Không". Đó chính là sự chứng nghiệm của chân đế: Khổ - Không - Vô thường.

Sư phụ nói với quý vị rằng, khi đối diện với bất kỳ sự việc nào, chúng ta cũng không nên suy nghĩ quá nhiều.Khi không suy nghĩ, cơ thể sẽ không còn cảm giác. Nhưng một khi đã khởi niệm, thân sẽ sinh phản ứng, ý thức cũng từ đó mà dấy lên những tạp niệm. Những phiền não trong nhân gian phần lớn đều bắt nguồn từ sự biến đổi của tâm. Chính vì tâm không ngừng dao động mới khiến con người sinh ra chấp trước. Nếu tâm hoàn toàn tĩnh lặng, thì làm sao có thể khiến quý vị chấp trước đây? Khi con người không còn bị chi phối bởi cảm giác, những suy nghĩ tiêu cực cũng sẽ tan biến, lúc đó tâm mới thực sự trống rỗng. Nếu chúng ta dùng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để phân biệt đúng sai, tốt xấu, cho rằng việc này nên làm thế này, việc kia nên làm thế khác, thì làm sao tâm của quý vị rỗng không được? Chỉ khi quý vị xem tất cả những gì mình nghe thấy, nhìn thấy đều là hư không, là ảo ảnh, là những thứ không tồn tại, những thứ khiến quý vị sinh ra cảm nhận và cảm giác về một dạng vật chất không có thật, thì quý vị mới hiểu rằng, tất cả rồi cũng sẽ tan biến rất nhanh.

Hồi còn nhỏ, rất nhiều đứa trẻ thích thổi bong bóng xà phòng. Chúng thổi ra một quả bong bóng, dưới ánh đèn, dưới ánh mặt trời, nó ánh lên đủ màu rực rỡ. Những quả cầu lấp lánh bay lơ lửng trong không trung, đẹp đến mê mẩn. Đôi mắt cứ dõi theo nó mãi, cho đến khi nó tan biến mất. Lúc đó, đứa trẻ bật khóc: “Con muốn quả cầu màu sắc đó!” Điều này cũng giống như quý vị tìm chân đế trong hư vọng- đó là không thể. Sư phụ nói cho mọi người biết rằng, chân đế là vô thường. Phải hiểu được “Không”, thì quý vị mới có thể buông bỏ mọi ham muốn. Khi không còn dục vọng, tâm mới có thể lặng như nước. Bởi thế, hiểu được “tánh Không” chính là chìa khóa quan trọng nhất của đời người.

Đôi khi, vào những lúc tâm hồn chúng ta mong manh hay bị đè nén bởi áp lực, chúng ta dễ dàng bị nỗi cô đơn và lo âu xâm chiếm. Bởi lẽ, ưu sầu, cô đơn và lo âu vốn là anh em, luôn đi cùng nhau như những người bạn đồng hành nhưng lại chẳng mấy vui vẻ. Một khi nỗi buồn len lỏi vào tâm trí, sự cô độc cũng sẽ kéo đến, rồi lo âu, phiền muộn, thậm chí cả những suy nghĩ tiêu cực cứ thế quấn lấy quý vị không rời. Mất việc khiến quý vị tự ti, không muốn gặp ai vì cảm thấy xấu hổ. Không có tiền khiến quý vị sinh nghi ngờ, chẳng còn muốn tin tưởng bất cứ ai. Bị lừa gạt khiến quý vị cảm thấy mất mặt, không dám đối diện với người khác. Tình cảm tan vỡ khiến quý vị càng thu mình lại, sợ hãi ánh mắt của thế gian.

Tất cả những điều này đều là những trạng thái tiêu cực của cuộc đời kéo theo mà đến. Bồ Tát dạy chúng ta cách từ chối tiếp nhận năng lượng tiêu cực, chính là phải hiểu rằng thế gian này luôn không ngừng tiến về phía trước. Hôm nay quý vị có thể đánh mất niềm vui, nhưng ngày mai có thể sẽ tìm thấy niềm vui mới. Hôm nay quý vị đau khổ, nhưng ngày mai chưa chắc quý vị vẫn chìm trong khổ đau. Đó chính là trí tuệ. Vậy tại sao có những người lúc nào cũng vui vẻ, luôn giữ nụ cười trên môi? Bởi vì họ nhìn thấy được tương lai.

Sư phụ mong rằng quý vị không chỉ vượt qua những năng lượng tiêu cực trong tâm mình, mà còn phải biết cách ngăn chặn việc tiếp nhận năng lượng tiêu cực từ người khác. Bởi vì có rất nhiều người khi nhìn thấy quý vị liền khóc, nhìn thấy quý vị liền đau khổ, nhìn thấy quý vị liền cảm thấy bế tắc, và dần dần, tâm của quý vị sẽ ngày càng thu hẹp lại. Hãy khiến nội tâm mình trở nên mạnh mẽ hơn, hãy mở rộng trái tim để có thể bao dung muôn điều, giống như biển lớn ôm trọn trăm sông. Khi đó, quý vị sẽ có thể chống lại sự ảnh hưởng của cảm xúc tiêu cực. Khi vừa cảm thấy buồn bã, hãy lập tức nghĩ đến những điều tích cực. Khi vừa nói chuyện với ai đó mà bị ảnh hưởng bởi năng lượng tiêu cực, khiến tâm trạng không tốt, hãy ngay lập tức dùng sức mạnh từ nội tâm của mình—hãy nhắc nhở bản thân rằng: “Chúng ta có Bồ Tát che chở, chúng ta là người học Phật”, v.v… để chống lại những tác động xấu lên chính mình. Dù là trong cuộc sống, gia đình hay hôn nhân, những tổn thương do lòng tự trọng nhất thời, sự ghen tị thoáng qua hay cơn sân hận tạm thời ập đến, tất cả sẽ dần tan biến khi quý vị biết làm dịu tâm mình, giải tỏa áp lực trong lòng. Đây chính là cách chúng ta nên làm để điều chỉnh cảm xúc của mình.

Đức Phật vĩ đại đã giảng dạy Phật pháp từ 2.500 năm trước, và đó chính là phương thuốc quý giá giúp con người thoát khỏi phiền não và sầu muộn trong thời kỳ mạt pháp. Buông bỏ và giải thoát chính là liều thuốc tốt nhất. “Quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, tương lai bất khả đắc”—đây chính là phương thuốc diệu kỳ nhất cho chúng ta. Đôi khi, đừng quá chấp vào những lỗi lầm mình đã phạm phải, cũng đừng quá bám víu vào những gì mình có hay những điều mình làm tốt. Chỉ khi buông bỏ được tất cả, nội tâm ta mới có thể trở nên kiên cường.