BTPP Quyển 3, tập 12
Tu hành trí tuệ của Bồ Tát giới
Hôm nay, sư phụ sẽ giải thích chi tiết về cảnh giới Bồ Tát, từng câu một để quý vị hiểu rõ. Bồ Tát là người đã bước vào sâu trong thiền định, có nghĩa là khi Bồ Tát đạt đến cảnh giới cao, các Ngài đã hoàn toàn có thể định tâm, đạt đến một cảnh giới rất sâu trong thiền định, có một mức độ rất cao, vượt qua cả cảnh giới của Bồ Tát ở sơ địa. Thiền định không phải là tu hành bình thường, thiền định là một loại định có trí tuệ. Thiền định là một loại định đi kèm với trí tuệ. Tu hành là biết cách tu, biết cách giữ vững.
Quý vị cần phải lấy nghe, suy nghĩ, tu hành và trí tuệ trong Phật pháp làm nền tảng. Quý vị phải học để đạt được cảnh giới cao nhất của Phật pháp, và dùng Phật pháp cao nhất để đối chiếu với sự tu hành của mình. "Nghe, suy nghĩ, tu hành và trí tuệ" có nghĩa là dùng sự nghe và suy nghĩ của mình để tu dưỡng trí tuệ, lấy những lý thuyết cơ bản nhất của Phật pháp làm nền tảng để sửa đổi tâm mình, tích lũy phúc đức để lợi ích chúng sinh.
Khi đã đạt đến cảnh giới Bồ Tát, tại sao lại còn phải tích lũy phúc đức để lợi ích chúng sinh? Đó là vì quý vị đã là Bồ Tát, có thể không xuống cứu độ chúng sinh, nhưng khi đã đạt đến cảnh giới cao của Bồ Tát, Bồ Tát không chỉ chăm sóc cho bản thân mình, không chỉ lo về việc mình là Bồ Tát, mà phải xuống để cứu độ chúng sinh, giống như việc chuẩn bị những gì cho bản thân mình vậy. Điều này gọi là tích lũy phúc đức để lợi ích chúng sinh.
Sư phụ từ cảnh giới Bồ Tát xuống để cứu độ chúng sinh, sư phụ phải chuẩn bị sẵn tư tưởng rằng: "Mình xuống trần gian này sẽ tu hành như thế nào, mình sẽ có thể chịu đựng và vượt qua những khó khăn ra sao, có lòng từ bi và thương xót chúng sinh như thế nào." Sư phụ xuống trần gian này đã trải qua bao nhiêu gian khổ, khiến cho tôi từ khi nhỏ đã cảm nhận được sự vô thường của cuộc sống. Khi xuống trần gian, quý vị phải chuẩn bị sẵn tư tưởng và chuẩn bị đầy đủ phúc đức. Phúc đức chính là tài nguyên, là năng lượng, giống như lương thực mà con người sử dụng vậy. Tích lũy phúc đức để lợi ích chúng sinh có nghĩa là mang món quà của Bồ Tát đến cho chúng sinh. Món quà ấy là gì? Đó chính là phúc đức, mang phúc đức đến cho chúng sinh.
Sư phụ mang xuống những điều khiến cho cơ thể mỗi người khỏe mạnh, gia đình hòa thuận, những người mắc bệnh nặng hồi phục sức khỏe, v.v... Đó chính là tích lũy phúc đức cho chúng sinh. Là Bồ Tát xuống trần gian, quý vị phải mang theo phúc đức của Phật Bồ Tát để lợi ích chúng sinh, mang năng lượng phúc đức đến cho chúng sinh, thì mới có thể vào được cảnh giới chính thức mà không gặp trở ngại. Vì quý vị đã chuẩn bị sẵn tư tưởng, vì quý vị là Bồ Tát, không chỉ tự mình tu hành mà không bị sa vào vòng luân hồi, mà quý vị nghĩ đến lợi ích của chúng sinh, cảnh giới của quý vị đang hướng về cảnh giới của Phật, nên quý vị đã chuẩn bị sẵn phúc đức và tài nguyên để xuống trần gian cứu độ chúng sinh. Bồ Tát ở cảnh giới cao đã có tâm nguyện này, hoàn toàn là xuống để cứu độ chúng sinh, vì vậy cảnh giới mới có thể nâng cao.
Nếu nghĩ đến việc giúp đỡ chúng sinh ở dưới (lục đạo), càng nghĩ nhiều càng đầy từ bi, năng lượng sẽ càng cao, quả vị cũng sẽ càng cao, và quý vị sẽ có thể trực tiếp bước vào chứng đạo trong thiền mà không gặp trở ngại. Chứng đạo chính là ý cảnh. Khi một người có cảnh giới cao, sẽ không có trở ngại. Ví dụ, vợ chồng một người tụng kinh, một người không tụng kinh, người tụng kinh sẽ có cảnh giới cao, làm việc thiện, tạo công đức; trong khi người không tụng kinh sẽ tạo ra nhiều chướng ngại để ngăn cản người khác làm việc thiện, tạo công đức. Khi cảnh giới của Bồ Tát đạt đến chứng đạo, thì có thể trực tiếp phá bỏ chướng ngại để bước vào chứng đạo. Chướng ngại phá bỏ như thế nào? Nếu quý vị đứng trên một ngôi nhà nhỏ, những ngôi nhà phía trước cao hơn, quý vị sẽ không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì phía trước, đó gọi là chướng ngại, không nhìn thấy chính là chướng ngại. Khi quý vị leo lên đỉnh một ngọn núi cao, thì phía trước sẽ không còn chướng ngại. Có nghĩa là khi cảnh giới của quý vị được nâng lên vị trí cao, tất cả phía trước đều bằng phẳng, mọi chướng ngại đều biến mất. Nếu bỏ tất cả xuống, không còn phiền não, cảnh giới của quý vị sẽ tự nhiên nâng cao, chướng ngại cũng sẽ không còn. Phá bỏ chướng ngại, đứng càng cao thì chướng ngại càng ít, cảnh giới càng cao, chướng ngại trong đời sống càng ít, quý vị sẽ nghĩ thông suốt mọi thứ—à, con người thật nhỏ bé. Khi quý vị nhìn từ máy bay xuống mặt đất, các ngôi nhà, xe cộ có giống như gián, kiến không? Các ngôi nhà có giống như hộp diêm không? Con người nhỏ bé đến thế nào. Vì khi ở trên cao, quý vị mới thấy con người nhỏ bé đến mức nào. Nếu vẫn nghĩ rằng nhà mình ở dưới đất rất lớn, rất quan trọng, nhưng khi nhìn từ trên cao thì nó giống như một hộp diêm, có gì quan trọng đâu. Hãy nghĩ như vậy, nhìn như vậy, quý vị hiểu không?
Bồ Tát có cảnh giới cao là "minh địa", minh địa là ánh sáng, tỏa sáng. Cảnh giới của Bồ Tát rất cao, đôi mắt của Ngài rất rõ ràng, rất sáng, mọi thứ đều nhìn thấy rõ ràng, bất kể quý vị nói gì, trong tâm Ngài luôn sáng tỏ, rất rõ ràng. Trong việc nghe pháp, “nghe” ở đây là nghe của Thanh Văn và Duyên Giác. Nghe và thính là hai khái niệm khác nhau. Nghe là mở ra tất cả trí tuệ của quý vị, mắt thấy, tai nghe, v.v., tức là mở hết bảy cửa của cơ thể, trí tuệ của quý vị có thể bộc lộ hoàn toàn. Nghe là có trí tuệ, phải hiểu được đạo lý mà quý vị nói, đó mới gọi là nghe. Nếu hôm nay sư phụ giảng pháp mà quý vị không hiểu, thì gọi là “thính”; nếu hiểu được lời giảng của sư phụ, thì gọi là “nghe”, đây là hai khái niệm khác nhau. Thanh Văn và Duyên Giác Bồ Tát giảng về điều này. Nghe là hiểu được đạo lý cơ bản, mới gọi là nghe.
“Tư duy pháp nghĩa” chính là tâm tư duy của Bồ Tát nghĩ về pháp giới. Pháp giới chính là chúng ta đang nói về thế giới nhân gian, chúng ta đang ở trong nhân đạo, và pháp này là Bồ Tát chỉ đặc biệt gọi là thế giới nhân gian, gọi là pháp giới. Còn chúng ta gọi là thế giới. Pháp nghĩa là gì? “Nghĩa” thực ra chính là cảnh giới. Mọi thứ mà quý vị suy nghĩ, mọi thứ mà quý vị tư duy đều được gọi là pháp nghĩa. Nghĩa là vượt ra khỏi tư duy trong pháp giới này, để hướng dẫn tư duy trong pháp giới của quý vị.
"Giải ngộ chân lý", ngộ ra những điều mà quý vị cho là chân lý. Bồ Tát phải hóa giải điều này: những gì quý vị cho là chân lý, nhưng không hẳn là chân lý. Bồ Tát có trách nhiệm hóa giải và khai ngộ. Ví dụ, có một số người tu hành rất chấp trước, khi quý vị nói rằng pháp môn của Đài Trưởng tốt như thế nào, họ cho rằng mình đã tu pháp môn đó rồi, tôi đã tụng kinh này, tôi đã làm thế này thế kia, nếu họ nói rằng họ làm thế này thế kia là tốt, điều đó có nghĩa là họ đã bị cuốn vào trong đó, họ cho rằng đây là đúng, là chân lý, vì vậy họ mới chấp trước và theo đuổi. Một người làm điều sai lầm đều vì họ nghĩ rằng điều đó là đúng, mới dám làm. Hôm nay, dù không vui, dù có ý kiến với người nào đó, cũng vì quý vị nghĩ rằng mình đúng. Đúng không? Quý vị cho rằng đây là chân lý, nhưng Bồ Tát chính là người giúp quý vị hóa giải, giúp quý vị khai ngộ, giúp quý vị hiểu được liệu những gì mình đang làm có phải là chân lý hay không. Tại sao học Phật đến cuối cùng lại sai lầm? Chính là vì nghĩ rằng mình đúng, nghĩ rằng mình đang học chân lý, chính là vì mình nghĩ mọi thứ đều đúng, nếu thực sự là đúng thì đó là công đức, nếu đi sai sẽ tạo nghiệp. Đây chính là điều mà sư phụ giảng về cảnh giới của Bồ Tát: giải ngộ cuộc sống, giúp hóa giải, giúp quý vị khai ngộ.
"Vì pháp quên thân", vì việc hoằng dương Phật pháp mà quên đi thân thể của chính mình, bỏ mình cứu người. Sau đó, theo pháp mà tu hành, tu tập theo Phật pháp, rộng rãi tích lũy công đức. Bồ Tát làm sao cũng phải rộng tu công đức? Công đức không phải là thứ chỉ có ở nhân gian sao? Tại sao lên trời rồi còn phải tu công đức? Công đức này chính là từ nhân gian mà đến, quý vị tu Bồ Tát đạo ở nhân gian cũng giống như chúng ta ở nhân gian muốn học một trình độ nào đó, đều có cấp bậc. Trong nhân gian quý vị vẫn có thể tu Bồ Tát đạo, vấn đề là quý vị có tu được không? Có tu tốt không? Nếu tu Bồ Tát đạo mà không tốt, có thể kiếp sau quý vị lại đầu thai thành người. Bởi vì cảnh giới không giống nhau. Quý vị yêu cầu cảnh giới quá cao, nếu không tu thành công sẽ bị rớt xuống, lúc đó quý vị không có ngay cả cái trình độ cơ bản. Rất nhiều người niệm A Di Đà Phật mong được sinh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm đến cuối cùng lại nghĩ mình có thể về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nghĩ rằng khi lâm chung chỉ cần niệm A Di Đà Phật thì Phật A Di Đà sẽ đến tiếp đón. Nhưng nếu khi lâm chung linh hồn quý vị rời khỏi thân thể, nói không ra lời, không còn ý thức, không còn cảm giác, thì còn niệm A Di Đà Phật được không? Đây chính là nghiệp chướng đã ngăn cản quý vị niệm A Di Đà Phật. Nghiệp chướng này chính là chướng ngại do quý vị trong quá khứ chưa tiêu trừ hết, vì vậy không thể đạt được, đến lúc đi, niệm A Di Đà Phật để Phật Bồ Tát tiếp dẫn.
Phật Bồ Tát giảng rằng khi quý vị lâm chung, niệm A Di Đà Phật là có điều kiện (tiêu chuẩn). Khi quý vị lâm chung vui vẻ, không mắc nợ, không bệnh tật, lúc đó niệm A Di Đà Phật mới có thể sinh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu làm nhiều việc xấu, nghiệp chướng nặng nề, mà vẫn nghĩ khi lâm chung chỉ cần niệm A Di Đà Phật là có thể vãng sinh, thì điều đó là không thể. Điều này không có nhân quả gì cả. Nghiệp chướng nặng, nợ chưa trả hết thì làm sao có thể lên được? Ví dụ như quý vị ở Sydney nợ người ta một triệu, quý vị bỏ trốn, nhưng dù quý vị trốn ở đâu thì cũng không thể thoát khỏi lưới pháp. Sư phụ bây giờ truyền dạy cho quý vị pháp môn tâm linh chính là để quý vị tự mình tiêu trừ nghiệp chướng, trả hết nợ, mới có thể quay về "nhà" (nhà này chính là Phật Quốc). Vì vậy trong A Di Đà Kinh có nói: “Không thể ít thiện căn phúc đức duyên, được sinh về cõi ấy.”