Hãy dùng tâm bình đẳng, tích lũy phước điền và gieo trồng nhân quả



Vấn đề về ngày tận thế: Ngày tận thế là một đại kiếp, và đại kiếp này chắc chắn sẽ đến. Khi nào đến thì không biết, bởi vì khí kiếp vẫn chưa hình thành. Điều này cho thấy rằng vẫn còn rất nhiều người đang làm việc thiện, làm người tốt, tu tâm, niệm kinh, và cứu giúp người khác. Đã từng có nhiều dự đoán rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2000, nhưng bây giờ đã là năm 2010, tức là đã bị trì hoãn ít nhất 10 năm. Sư phụ đã từng giảng rằng, kiếp lớn là đại tai nạn, còn kiếp nhỏ là tiểu tai nạn. Với một người mà nói, chỉ cần người đó chết ở nơi nào đó, hoặc bị ảnh hưởng bởi tai nạn, thì đối với cá nhân người đó, đó chính là ngày tận thế.


Ví dụ, nếu một chiếc máy bay sắp rơi, thì đối với các hành khách trên máy bay, đó chính là ngày tận thế. Chúng ta phải cố gắng tu tâm dưỡng tính, để khi tai kiếp đến, những người tốt trong chúng ta vẫn còn sống sót. Những ai không vượt qua được kiếp nạn thì cơ bản không phải là những người tốt hoặc là người đã tu luyện. Ví dụ: Trong trận động đất, có một số người chết, trong đó có những người tốt, nhưng họ chỉ là oan hồn chết oan, không thể được xem là người tốt thực sự. Người tốt thực sự sẽ không chết trong kiếp nạn. Chẳng hạn, trong một trận động đất, có hơn 20 đứa trẻ lúc đó không đến trường và vì thế tránh được một kiếp nạn. Khi một máy bay gặp tai nạn mà vẫn còn một đứa trẻ sống sót, điều này có ý nghĩa gì? Có người do đột nhiên cảm thấy không khỏe nên không lên máy bay, và cuối cùng máy bay gặp nạn. Những người như vậy có phải là người tốt không? Đó chính là những người có phúc. Phúc lớn, lượng lớn, công đức lớn.

Sư phụ không khuyên các bạn, các bạn chỉ cần làm tốt trong khả năng của mình, và khi thời điểm của kiếp nạn đến, mọi người hãy tự lo liệu cho mình. Sư phụ không phải đang dọa các bạn, ngay cả khi các bạn ở bên cạnh sư phụ, sư phụ cũng chưa chắc cứu được các bạn. Khi tai kiếp đến, chỉ có thể dựa vào công lực và công đức của chính mình. Lúc đó, Bồ Tát cứu được thì sẽ cứu, không cứu được thì phải ra đi, không phân biệt nam nữ, già trẻ. Các bạn hãy tự nhìn vào hành vi của mình, xem bản thân có tu hành, tu tâm đến mức nào, còn đang cầu mong điều gì, rồi các bạn sẽ hiểu ra. Nếu các bạn quỳ ở đây mà vẫn còn cầu nguyện cho gia đình mình bình an, hoặc cầu mong bản thân kiếm được nhiều tiền, công việc thuận lợi, phát tài, thì đây chỉ là đang tu Phật pháp tiểu thừa nhân gian.


Sau đây sư phụ sẽ giảng cụ thể về “nhiều dục vọng là khổ.” Dục vọng càng nhiều, người đó sẽ càng khổ. Hôm nay tôi muốn cái này, không đạt được; ngày mai tôi muốn cái kia, cũng không đạt được. Ví dụ, dục vọng của sư phụ là gì? Tôi muốn cứu giúp nhiều người, nhưng không cứu được thì tôi sẽ rất buồn. Dục vọng của các bạn là gì? Có một công việc tốt hơn, không bị đuổi việc. Thực ra, khi đã có dục vọng này, con người sẽ cảm thấy khổ. Nếu một người có thể từ bỏ dục vọng, họ sẽ không còn khổ nữa. Cuộc đời có thể gọi là “sinh tử mệt mỏi,” nghĩa là sinh ra đã mệt mỏi, chết đi cũng mệt mỏi. Khi con người sắp chết, họ cảm thấy cuộc đời mình đã kết thúc, rất mệt mỏi. Nhiều tiểu thuyết và phim ảnh miêu tả rằng khi một người nằm trên giường trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, họ nói: “Tôi đã rất mệt mỏi ở trần gian này rồi, tôi muốn ra đi.”


Mặt khác, “ít dục không làm gì cả.” Nghĩa là một người nên ít dục vọng, không cầu mong điều gì, như vậy sẽ có thể tự tại về thân tâm. Con người không nên bị ám ảnh bởi những việc vụn vặt hàng ngày, đó gọi là “tâm không chán ghét.” Nghĩa là tâm con người mãi mãi không biết chán ghét, cũng không bao giờ cảm thấy hài lòng. Bạn sẽ chán ghét khi đạt được điều gì đó không? Bạn hãy nhìn xem, một người kinh doanh, hàng hóa đến thì bận không xuể, nhưng vẫn cố gắng làm; đến khi không có hàng hóa, lại bắt đầu cầu mong - "chỉ cần nhiều hơn một chút." Cầu mong nhiều điều tư lợi sẽ làm tăng tội lỗi của bản thân. Khi một người muốn cầu mong lợi ích cá nhân, trong tâm linh của họ đã xuất hiện sự tham lam. Một khi con người có lòng tham và sân hận, họ có thể làm bất cứ điều gì. Mọi người cần phải tôn trọng sư phụ, coi trọng pháp môn, nhất định phải tu luyện thật tốt.


Các bạn có biết công đức của một người từ đâu mà có không? Ví dụ: Chỉ cần đăng một bài viết trên blog của sư phụ, nếu có người nhấp vào xem thì người viết và đăng bài đó đã có công đức. Ông Lương Tiêu viết hai cuốn sách *Nhất mệnh nhì vận tam phong thủy* và *Thiên địa nhân*, công đức của ông ấy rất lớn, không cần phải bàn cãi. Chỉ cần có người đọc sách của ông Lương Tiêu, công đức và phúc đức của ông ấy tự động tăng lên. Một người chỉ cần giúp đỡ người khác, viết và chia sẻ cảm nghĩ của mình thì phúc đức của họ sẽ tự động tăng lên. Đây gọi là nhân duyên của phúc đức. Phúc đức được tạo ra từ những gì mà chúng ta thường ngày gieo trồng. Viết ra những trải nghiệm khi niệm kinh cứu giúp người khác giống như dựng lên một biển chỉ đường tại ngã ba phức tạp, có thể chỉ dẫn cho những người lạc đường, nhờ vậy mà có được phúc đức. Đồng thời, những người đọc cảm nghĩ đó cũng sẽ kết duyên với bạn. Khi đọc sách của sư phụ, họ cũng kết duyên với sư phụ; khi đọc cảm nghĩ của bạn, họ cũng kết duyên với bạn.

Nhiều người đều mong muốn có quý nhân giúp đỡ. Sư phụ giải thích rằng, quý nhân từ đâu mà có? Quý nhân có được từ hành động bố thí. Khi một người thực hiện bố thí, là lúc họ gieo nhân duyên quý nhân. Khi một người giúp đỡ người khác, có thể họ không nghĩ đến điều này, nhưng rồi sẽ có lúc người đó sẽ giúp đỡ lại bạn. Bạn càng giúp đỡ người khác, bạn càng nhận được nhiều sự giúp đỡ. Khi bạn nhận được sự giúp đỡ từ người khác, đó chẳng phải là gặp quý nhân sao? Quý nhân là nhờ vào cách sống và cách đối nhân xử thế của bản thân mà có được. Sư phụ từng quen một người, khi muốn đi nước ngoài nhưng không làm được hộ chiếu, bỗng gặp lại một người bạn nhỏ từng giúp đỡ trong quá khứ, nay người này đang làm việc tại Cục Xuất nhập cảnh và đã giúp đỡ lại anh ta. Đó gọi là duyên quý nhân, không thể ngờ trước được. Sư phụ khuyên rằng khi giao tiếp với bất kỳ ai, không nên coi thường người khác, bởi vì biết đâu một ngày nào đó người ấy sẽ trở thành một ai đó quan trọng. Không nên có ánh mắt khinh thường, nên đối xử tốt với mọi người. Các bạn nghĩ xem, đây có phải là Phật pháp không? Đây chính là Phật pháp, đây là cách kết duyên quý nhân.

Tiếp theo, sư phụ sẽ giảng cho các bạn về việc cúng dường Phật và cúng dường người nghèo, liệu phúc đức có giống nhau không? Có người nói là không giống, có người nói là giống. Thực ra, các bạn chưa phân biệt rõ vấn đề này. Nếu bạn có tâm Phật và lời nói Phật, nếu bạn tu tâm tu hành đến một cảnh giới nhất định, thì việc cúng dường Phật và cúng dường người nghèo là như nhau. Tâm bình đẳng được thể hiện ở đây. Hôm nay, bạn lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, bạn mua trái cây, và khi bạn mua trái cây cho người nghèo, nếu tâm của bạn là bình đẳng, thì phúc đức của hai hành động đó là như nhau. Trong nhân gian tu học Phật, tâm bình đẳng rất quan trọng. Tại sao nhiều người gọi trẻ nhỏ là “tiểu Bồ Tát”, còn người lớn tuổi là “lão Bồ Tát”? Bởi vì bạn không biết khi nào họ sẽ tu thành Bồ Tát. Chẳng lẽ khi họ chưa tu thành Bồ Tát, bạn có thể đối xử tệ với họ sao? Phải dùng suy nghĩ chính đáng để đối đãi với mọi người, và phúc đức là vô lượng. Cúng dường Phật, cúng dường Bồ Tát và cúng dường người tốt đều mang lại phúc đức rất lớn.

Có người chỉ tu trí tuệ mà không tu phúc.Tu trí tuệ là niệm kinh, nhưng không chịu hành động giúp người. Họ chỉ ngày ngày niệm kinh, nhưng không ra ngoài giúp người khác, thì chỉ có thể tu thành A-la-hán, đây là Phật pháp tiểu thừa. Sư phụ nhận thấy nhiều người trong số các bạn chính là như vậy: niệm kinh rất giỏi, nhưng không độ người khác. Khi người nghe gọi điện thoại hỏi vấn đề, đó chính là cơ hội tốt nhất để độ người và làm công đức. Nắm bắt được một cơ hội là có được một phần công đức. Mọi người cần phải hiểu được cách gieo trồng "ruộng phúc" – chính là trồng phúc của mình vào trong tâm. Nếu không biết cách gieo ruộng phúc, sẽ không có phúc khí, trong lòng sẽ cảm thấy trống rỗng. Không chịu làm việc thiện, không chịu giúp người khác, chỉ biết niệm kinh, giống như người lên núi tu hành để tìm sự thanh tịnh, muốn tránh xa phiền não thế gian, không muốn tiếp xúc với người phàm. Vì vậy, duyên của A-la-hán với chúng sinh rất mỏng, không thể chỉ biết tu hành cho riêng mình.

Một trường hợp khác là chỉ chăm chú cứu độ chúng sinh mà không tự tu trí tuệ. Giống như nhiều pháp môn, họ chỉ tập trung làm việc thiện nhưng không có trí tuệ, không biết làm nhiều như vậy là để làm gì. Điều này cũng không được.


Có một phương pháp tu hành rất hay gọi là “lấy quả để xét nhân,” tức là dùng nhân để biết quả của bạn, nghĩa là trước khi làm việc gì đó, hãy nghĩ đến kết quả trước. Ví dụ, hôm nay tôi đối xử tốt với các bạn, tôi có thể biết các bạn sẽ đáp lại tôi thế nào. Có câu nói rằng: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.” Bồ Tát lo sợ việc gieo nhân xấu. Thực tế, Bồ Tát đã biết trước kết quả sẽ ra sao. Còn con người thì ngược lại, làm việc mà không nghĩ đến, khi quả xấu đến thì sợ hãi. Khi bạn tin vào Phật, làm bất kỳ việc thiện hay công đức nào, bạn nên nghĩ đến kết quả của nó trước, rồi mới xem liệu có nên gieo nhân đó không. Đây là một phương pháp tốt. Khi gieo nhân, bạn có thể không biết quả sẽ ra sao. Nhưng khi biết trước quả sẽ như thế nào mà mới gieo nhân thì sẽ khác hẳn.

Ví dụ, bạn bị chồng mắng mỗi ngày, anh ấy gieo nhân đó, thì sớm muộn gì bạn cũng sẽ mắng lại anh ấy hoặc phản kháng. Nghĩ thử xem, nếu bạn mắng anh ấy mỗi ngày, cứ tiếp tục như vậy, thì một ngày nào đó có thể anh ấy sẽ rời bỏ bạn. Khi nghĩ đến kết quả có thể xảy ra như vậy, bạn sẽ không còn muốn mắng nữa, cũng sẽ không gieo nhân xấu đó nữa. Hôm nay, nếu bạn nói xấu anh ấy, bạn phải hiểu rằng khi anh ấy biết được, bạn sẽ nhận lại kết quả như thế nào, vậy thì bạn sẽ không nói xấu nữa.


Sư phụ đã từng giảng cho các bạn về sự khác biệt giữa việc thiện và công đức. Hôm nay, sư phụ giải thích rằng, “thấy được bản tính là công, bình đẳng là đức.” Khi làm bất kỳ việc gì mà có thể thấy rõ bản tính của mình, việc làm đó chính là công đức. Dùng tâm mà làm là công đức. Học Phật cần có tâm bình đẳng, và sự bình đẳng này không chỉ là bình đẳng trong nhân gian, mà bình đẳng trong tâm là quan trọng nhất. Cần phải dùng tâm bình đẳng để đối xử với người khác. Nếu hôm nay, khi nghe sư phụ gọi điện, thấy giọng ai dễ nghe hơn thì sư phụ nói nhiều hơn, còn nếu là bà cụ gọi vào mà nói năng không rõ, thì sư phụ cũng phải giúp đỡ họ tận tình như vậy. Mọi người cần phải đối xử bình đẳng với mỗi người, mỗi việc từ trong tâm, đó mới là có đức hạnh.