QUYỂN 1- TẬP 32
Mục Đích Chủ Yếu Của Học Phật- Tuệ Ngôn 2

Hôm nay trước hết thầy sẽ giảng cho mọi người,“sau khi kiến tánh thì huệ quang sẽ hiển lộ”. Kiến chính là nhìn thấy, tánh chính là bổn tánh. Chỉ sau khi quý vị nhìn thấy bổn tánh của quý vị, thì ánh sáng trí tuệ của quý vị mới xuất hiện. Vậy như thế nào là không có kiến tánh? nghĩa là chỉ dùng khôn lỏi, chỉ lo lợi ích trước mắt mà không lo cho những điều sẽ đạt được trong tương lai. Và như thế nào là kiến tánh? Nghĩa là bản thân mình phải hiểu rõ trong tâm mình đang suy nghĩ cái gì? Phải dùng tâm trong sáng minh bạch mới có thể nhìn thấy được bổn tánh của chính mình. Người không trong sáng minh bạch thì sẽ không thấy được bổn tánh của chính mình. Quý vị nói xem người uống rượu có thể nhìn thấy được bổn tánh của chính mình không? Có biết bao nhiêu người không khai ngộ chính là vì sự mê muội, sự mơ hồ.

“Vi thiện tất xương, vi thiện bất xương, tất hữu dư ương, ương tẫn tất xương.

Vi ác tất ương, vi ác bất ương, tất hữu dư xương, xương tẫn tất ương.”

Một người chân chính làm việc thiện nhất định sẽ hưng thịnh. Và một người nếu làm việc thiện mà không có được quả báo tốt, chứng tỏ là người này trước đây đã làm nhiều điều ác và những nghiệp ác này vẫn còn ở trên người chưa được tiêu trừ. Chờ đến khi tất cả tai họa và cực khổ đều được kết thúc và sau khi thiện ác hoàn toàn được triệt tiêu, thì nhất định sẽ có phúc báu, nhất định sẽ hưng thịnh. Nhưng với điều kiện là người này phải có thiện, nếu không có thiện, thì sau khi tai ương, tai hoạ qua rồi thì không nhất thiết là sẽ được hưng thịnh. Rất nhiều người làm việc thiện mà không có được báo ứng tốt, điều này nhất định là có tai ương còn sót lại. Là bởi vì kiếp trước làm rất nhiều việc ác đến nay không có hoá giải nó cho nên mới có tai ương còn sót lại. Làm điều ác nhất định sẽ mang họa, nếu như một người làm rất nhiều việc xấu nhưng lại không có mang họa không gặp báo ứng không có ác báo thì chắc chắn người này có hành thiện và tích lũy phúc đức trên người từ kiếp trước, cho nên họ chưa bị gặp báo ứng. Nếu như báo ứng đến rồi nhất định sẽ mang họa “làm ác nhất định sẽ mang họa”, còn nếu chưa gặp họa là nhất định có tích thiện. Người làm xằng làm bậy, giết người phóng hỏa nhưng tại sao họ vẫn sống tốt như vậy? Điều này chứng tỏ là họ trước đây hoặc tổ tiên của họ, hoặc mấy đời trước của họ có rất nhiều thiện quả và thiện duyên, cái thiện duyên này nhiều hơn ác duyên mà họ làm ở hiện tại cho nên họ không bị tai ương, nhưng đến khi hết thiện rồi thì họ sẽ có tai ương”. Bởi vậy sau khi hai phương diện này được bù trừ và tiêu hao hết, thì họ chắc chắn sẽ phải gặp tai ương. Đây gọi là trồng quả được quả, trồng đậu được đậu nghĩa là gieo nhân nào gặt quả nấy.

Quý vị không nên khởi tâm sân ngại nghĩa là tâm sân và tâm quái ngại. Quý vị đừng sân, “sân” ở đây chính là tức giận còn “quái ngại” là lo lắng, phiền não, khổ sở, ganh ghét v.v.. Ví dụ như một người nếu làn da của họ có chút không thoải mái, người có tâm quái ngại đầu tiên sẽ nghĩ đến mình có phải sinh bệnh ung thư hay không? Nhưng có một số người sẽ nghĩ có thể là bị con gì cắn, sẽ không có việc gì đâu. Ý niệm của người này họ sẽ không chuyển hoá thành không tốt (nghĩa là họ sẽ không suy nghĩ tiêu cực).

Tâm sẽ làm chủ sinh mệnh của một người nghĩa là tâm linh sẽ làm chủ sinh mệnh. Rất nhiều người làm nó đầu đuôi lẫn lộn cũng như có một số người thì thân thể làm chủ tâm linh. Ví dụ như người uống rượu, khi cơn nghiện rượu nổi lên rõ ràng trong lòng biết là sắp phải lái xe, không thể uống rượu nhưng thân xác họ lại khiến họ cầm rượu lên là uống và khi lái xe đi ra ngoài đường là bị công an phạt tiền hoặc phát sinh tai nạn xe cộ. Cho nên con người không thể bị thân thể khống chế. Tinh thần con người phải khống chế thân thể chứ không phải thân thể khống chế tinh thần. Thân thể muốn những thứ như tình dục, uống rượu, tùy ý động tâm, sự việc thì xáo trộn v.v.. . Đây chính là dùng thân thể khống chế tinh thần. Con người là động vật cao cấp, bởi vì có tư duy linh hồn, tư duy chính là linh tính cao cấp. Cho nên phải dùng tư duy để khống chế linh hồn của chính mình, như vậy sẽ không phạm phải sai lầm nữa.

Một người phải thường sinh ra tâm hổ thẹn. Bởi vì thường sinh ra tâm hổ thẹn mới có thể giúp quý vị tiến bộ. Phải học cách hòa hảo, còn nếu cứ so sánh với nhau thì sẽ sinh ra tâm hổ thẹn. Phải luôn luôn nhớ kỹ không nên đem bản thân mình đi đối chiếu với những điều tốt của người khác. Ví dụ như: người khác tốt vậy thì có nghĩa là mình không tốt, nếu nói như vậy thì cái này gọi là “tư tâm tạp niệm”.

Một người phải thường có tâm hoan hỷ. Phải dùng trí tuệ để chiến thắng phiền não của chính mình, chiến thắng nỗi buồn và khó khăn của chính mình, cho nên phải thường xuyên sinh tâm hoan hỷ. Một người phải luôn sinh tâm hoan hỷ mà nghĩ rằng “so lên mình chẳng bằng ai, so xuống không ai bằng mình”, nghĩa  là ở trong tâm họ phải nên hun đúc một cái duyên tốt, một trường khí tốt, êm ấm hòa hợp.

Một người phải thường xuyên sinh tâm từ bi. Có tâm từ bi thì có thể sinh ra trí tuệ. “Từ” chính là cho người khác vui sướng, “bi” chính là tiêu trừ thống khổ của người khác. Thường xuyên quan tâm người khác, suy nghĩ cho người khác về mọi mặt đây chính là tâm từ bi. Một biểu hiện cụ thể khác của tâm từ bi chính là đối xử nhã nhặn với người khác, không tức giận. Tâm hận thù là vô cùng đáng sợ bởi vì nó có thể đem tất cả thiện hạnh tu dưỡng của quý vị từ trước hóa thành tro tàn, hơn nữa sẽ mang đến vô số phiền não cùng với không có bình an. Cho nên mới nói: “Nhất bả vô minh hoả, công đức tẫn thành khôi” (một ngọn lửa vô mình sẽ thiêu trụi công đức), “nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chưởng môn khai”. Chỉ cần tâm phát lên một niệm sân hận, đủ loại nghiệp chướng đều sẽ xuất hiện. 

“Tuỳ duyên tiêu cựu nghiệp, canh mạc tạo tân ương”, “cựu nghiệp”, chính là nghiệt chướng đã được tạo từ trước, thông thường là nghiệt chướng từ kiếp trước. Nghiệt chướng kiếp trước không cần cố chấp để mà đi tiêu trừ bởi vì kiếp trước đã tạo thành nhân quả không có biện pháp nào để tiêu trừ. Kiếp này những gì chúng ta phải chịu tất cả đều là nhân của kiếp trước. Cho nên chỉ có thể tùy duyên khi tiêu trừ nghiệp cũ. Khi tùy duyên phải học được cách tùy thiện duyên, hoá giải ác duyên. Tu hành nhất định không được tạo thêm nghiệp mới, bằng không thì nghiệp cũ chưa tiêu lại tăng nghiệp mới. Tương lai sẽ càng vất vả, thậm chí sẽ sa đoạ mà đi xuống.

Trên thực tế tu tâm không phải chỉ mỗi việc tu tâm mà thôi, mà còn cần phải kết duyên rộng rãi. Nếu không có duyên thì sẽ không dung dưỡng được cho việc tu tâm của quý vị.