TẬP 4 - MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC HỌC PHẬT VÀ TU TÂM - PHẦN 2


Tâm định là như thế nào? Mục tiêu của tu tâm đã có rồi, vậy phải tu tâm như thế nào? Và làm sao để gột rửa tâm của mình? Điều này phải dựa vào tâm để thực hiện - giác ngộ. Ngộ chính là suy nghĩ thông suốt, chúng ta luôn nói phải ngộ, nhưng đạo lý đã bày ra đó, luân hồi - nhân quả, duyên phận - vận mệnh thì còn có thể ngộ được gì nữa? Thực ra, trăng sáng, hoa bay, mỗi một cái cây ngọn cỏ đều mang lại cơ hội giác ngộ, trong sinh hoạt hàng ngày mỗi một sự việc đều có khả năng làm chúng ta lĩnh hội thêm nhiều hơn. Ngộ là một quá trình ứng dụng Phật Pháp vào cuộc sống và từ trong sinh hoạt cuộc sống lại có thể lĩnh hội được Phật Pháp, đây là một quá trình luyện tập lặp đi lặp lại. Để chuẩn bị cho kỳ thi, chúng ta cần phải ôn tập lại và nắm vững những ứng dụng cơ bản cho đến khi thành thạo để có thể áp dụng tự nhiên. Trên con đường tu tâm, mỗi khi vận dụng Phật Pháp một cách chính xác thì tâm cảnh sẽ tăng lên một phần, nhưng đồng thời có thể là 9 lần trước đều tu đúng, nhưng nếu sai ở lần thứ 10 thì liền có khả năng dẫn đến việc "kiếm củi ba năm thiêu một giờ", cho nên mới nói trên con đường tu tâm phải cẩn thận "như đi trên băng mỏng".

Có rất nhiều đồng tu đã nghiên cứu rất cẩn thận "lời giảng" của Đài Trưởng, lý giải rất thấu triệt, tu hành rất tinh tấn, đây là một hiện tượng tốt, chứng tỏ mọi người đều nhận thức được đây là một Pháp Môn thù thắng. Tuy nhiên, thông qua những câu hỏi được hỏi trên mạng và cách chúng ta đối xử với mọi người trong cuộc sống hàng ngày có thể thấy được rằng, nhiều người vẫn đang trong giai đoạn trả nợ và chưa nhận thức được Phật Pháp chính là cuộc sống, đạo lý cơ bản là phải học cách làm người trước khi học Phật. Tuy rằng nhờ niệm kinh mà tâm tính có thay đổi, nhưng không bắt đầu chủ động suy ngẫm về bản thân mình, chủ động tìm ra tật xấu để sửa lại phẩm hạnh, hay nói cách khác là chưa chủ động đem Phật Pháp áp dụng vào cuộc sống, chưa chủ động đem Phật Pháp ứng dụng cho bản thân mình. Chẳng hạn nói "giới, định, tuệ", có nhiều người vẫn không hiểu rõ phải giữ giới, giới là gì hay giữ giới như thế nào để có được định? Tại sao phải định? Định cái gì? Đây là tất cả những vấn đề mà Tâm phải cần hiểu rõ. Tương tự như vậy, chúng ta ngày nay thường nghe nhiều đến thuộc lòng lời tổng kết kinh nghiệm của các tiền nhân, cũng cần từ trong đó ngộ ra nguyên lý của nó, nó căn cứ vào định luật cơ bản của Phật Pháp, như vậy mới có thể hiểu tại sao các tiền nhân lại nói như vậy. Ví dụ, tại sao nói "nhẫn nhục mới có thể tinh tấn" căn cứ vào nguyên lý nào? Tại sao lại nhấn mạnh nhiều đến "vô ngã" và vai trò là gì v.v…? Không những chỉ biết câu nói này là được nhưng chúng ta còn có thể làm theo và không thể làm theo một cách máy móc rập khuôn, chỉ khi lý giải được nguyên lý mới có thể học một biết mười, mới có thể thật sự hiểu, thật sự biết ứng dụng. Điều này không khác biệt với khi chúng ta học tập áp dụng định luật toán học.

Vì vậy, "ngộ" không quá xa vời trừu tượng, trong việc học Phật hằng ngày, chúng ta thực sự đã giác ngộ mà không hề hay biết: niệm kinh như thế nào? Làm thế nào để niệm kinh tốt hơn? Ngôi nhà nhỏ được ứng dụng như thế nào, v.v.. Kế tiếp là tìm hiểu một cách có hệ thống và có ý thức, suy nghĩ nhiều hơn về "tại sao" từ đó càng hiểu rõ thêm nhiều đạo lý. Người tu tâm không dám làm điều xấu, cũng giống như người hiểu luật không dám vi phạm pháp luật bởi vì đã hiểu rõ được đạo lý.

Tu hành là tu cái gì?

Tu hành là để điều chỉnh hành vi của mình, với mục đích đạt đến cảnh giới giác ngộ cao nhất - Triệt Ngộ (giác ngộ hoàn toàn). Tu hành có 3 phương diện: chuẩn mực hành vi, những điều cấm kỵ trong ngôn ngữ và sự nâng cao ý thức phẩm hạnh. Trên thực tế, khi chúng ta biết nghiệt lực chiếm phần lớn trong tấm lưới hồng trần, mà các nghiệt chướng này đều đến từ "thân, khẩu, ý" như vậy thì có thể rất dễ dàng lý giải mục đích của ba phương diện này là để tránh tạo nghiệt. Tiêu chuẩn hành vi ngăn chặn những nghiệt chướng do thân tạo ra, điều cấm kỵ về ngôn ngữ làm cho bản thân không tạo khẩu nghiệp, và việc nâng cao ý thức phẩm hạnh là đề phòng những ý niệm xấu trong tâm trí, từ đó mà ít tạo ý nghiệp.

Hiểu được những đạo lý này, chúng ta có thể lấy chúng làm tiêu chuẩn cơ bản để điều chỉnh hành vi của mình, giảm bớt nghiệt chướng và không dệt thêm những sợi dây mới trong tấm lưới hồng trần này. Tất nhiên, việc áp dụng nguyên lý này vào cuộc sống ở mức độ nào còn tùy vào trình độ lĩnh ngộ của mỗi người. Ví dụ: Người lãnh đạo đơn vị công tác của quý vị rõ ràng đã tăng khối lượng công việc của quý vị, khiến mỗi ngày quý vị phải làm việc cật lực và thường xuyên làm tăng ca, nhưng những người khác có cùng mức lương lại rảnh rỗi hơn quý vị. Trong hoàn cảnh này, quý vị có thể nhẫn nhịn không mắng chửi người khác, có thể nhẫn nhịn không làm điều gì vượt quá giới hạn, nhưng trong lòng quý vị có thật sự là không tức giận không? Tại sao việc không tức giận lại quan trọng đến thế? Nếu quý vị không tức giận, người khác có nghĩ quý vị là kẻ nhu nhược không? Tâm thái chính xác phải như thế nào?

Việc lĩnh ngộ những điều này là tùy thuộc vào chính chúng ta. Mỗi lần trả lời một vấn đề, cảnh giới của chúng ta sẽ tăng thêm một phần, lĩnh ngộ khác nhau sẽ dẫn đến cảnh giới khác nhau. Nếu không lĩnh ngộ được, quý vị sẽ luôn so sánh khối lượng công việc của người khác, thường xuyên cảm thấy bị đối xử bất công, dần dần trở nên oán hận, lúc này nghiệt duyên sớm đã gieo xuống mà quý vị không hề hay biết, ngược lại quý vị cho rằng mình mới là người chịu khổ, và dần dần mất đi đạo tâm. "Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân" (Sư phụ dẫn dắt vào cửa Phật còn việc tu hành là dựa vào cá nhân mỗi người). Chính vì mỗi người ở một hoàn cảnh khác nhau, gặp phải những vấn đề khác nhau nên Đài Trưởng không thể đặt trước mặt mỗi người những đáp án mà mọi người muốn nhận để mọi người lựa chọn. May mắn thay, cho dù thay đổi đến muôn lần thì bản chất vẫn không thay đổi và có những quy luật nhất định phải tuân theo. Tông chỉ chính là dùng nhân quả và duyên phận để lý giải cuộc sống, dùng những giáo pháp Đài Trưởng dạy để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống, dùng làm công đức, không khơi dậy ác duyên để làm thước đo ràng buộc hành vi của bản thân mình.

Ba phương diện của tu hành không hề nói đến việc tích lũy công đức, vậy làm sao công đức có thể là kết quả của sự tu hành? Kết quả trực tiếp của việc tu hành theo ba phương diện này là làm việc thiện, giữ thiện niệm và nói những lời tốt đẹp, đó đều là công đức.

Tu tâm, tu cái gì?

Tu tâm là một vấn đề mà tu hành phải đối mặt sau khi tu đến một trình độ nhất định, những người mới bắt đầu hoặc những người chưa có cảm ứng, trước hết có thể tập trung vào việc tiêu nghiệp và làm công đức, bởi vì khi đó trên người nghiệp chướng vẫn còn rất nhiều, nợ nần cũng có quá nhiều, dơ bẩn trong lòng còn chưa lau sạch thì khó mà nói đến việc tu tâm. Và khi chúng ta đã tiêu trừ nghiệp chướng đến một mức độ nhất định, thường vào thời điểm này sẽ có trải qua mộng khảo, chẳng hạn như ngửi được mùi gỗ đàn hương, nhìn thấy được nụ cười của Bồ Tát hoặc những cảm ứng khác, và dần dần thì việc tu tâm sẽ đến sau đó. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của "pháp tu hiện tại" do Đài Trưởng giảng dạy với những "pháp tu vị lai" khác.

Ma do tâm sinh, kỳ thực tâm ma và nghiệt chướng gắn kết với nhau không thể tách rời. Bây giờ chúng ta có thể trả được nợ sau đó lại tu tâm mình thì chúng ta có thể ra trận một cách nhẹ nhàng. Vì vậy, nó cũng giống việc tu tâm, pháp môn mà Đài Trưởng hướng dẫn hiển nhiên có thể giảm bớt nghiệp chướng trong tâm của mọi người, dễ dàng khắc phục tâm ma, thăng tiến cảnh giới và đạt được hiệu quả.

Từ ba phương diện của việc tu hành, chúng ta cũng có thể thấy rằng việc tu hành và việc tu tâm có mối liên hệ mật thiết với nhau, muốn tu sửa chính mình, trước tiên quý vị phải nhận ra chỗ sai trái trong hành vi của mình. Quá trình "giác" này chính là quá trình tu tâm, kiểm điểm bản thân, kiểm điểm tâm mình, dần dần nâng cao. Không có quy định chính xác nào cho việc tu tâm nhưng thông qua quy trình thao tác dần dần từng bước thì cơ bản giải thích được cách tu tâm là như thế nào. Bởi vì nghiệp lực của mỗi người là khác nhau và những trở ngại gặp phải trong tu hành cũng khác nhau, nên con đường tu tâm sẽ khác biệt rất nhiều. Nhưng vạn pháp quy nhất, dù con đường tu tâm của chúng ta có khác nhau đến đâu thì cũng chỉ có một mục tiêu cuối cùng, đó là tâm Phật và tâm Bồ Tát. Phật tâm là tâm của tất cả chúng sinh, và tâm của Bồ Tát là tâm từ bi, cho nên chỉ có thường xuyên kiểm điểm tâm mình, đối chiếu tâm mình với tâm Phật và tâm Bồ Tát, thì sẽ có thể tìm được những chỗ cần sửa trong tâm và từ đó điều chỉnh hành vi của mình.

Tâm Phật là tâm vô ngã nghĩ đến nỗi đau khổ của tất cả chúng sinh, còn tâm Bồ Tát là từ bi, hỷ xả, đây đều là những cảnh giới cực kỳ cao. Cho nên đó là tấm gương và mục tiêu cuối cùng của việc tu tập sửa đổi bản thân mình. Khởi điểm cơ bản của việc tu tâm là tu chỉnh tâm hồn và đạt tới cảnh giới tâm định tâm tịnh, nghĩa là tập trung vào thực tế, bắt đầu từ những tật xấu trên người chúng ta, loại bỏ tam độc "tham, sân, si" , thoát khỏi chấp ngã từ đó ổn định tâm trí, một lòng tu hành, đạt được tâm linh thuần tịnh, dần dần mà minh tâm kiến tính. Hãy nhìn thấy Phật tánh vốn dĩ của chúng ta - bao gồm lương tâm và thiện tâm, trau dồi và củng cố nó, và phát triển nó thành tâm từ bi.

Tâm thanh tịnh là gì?

Tu chỉnh tâm là điểm khởi đầu của việc tu tâm, nhưng mỗi người khác nhau thì quan điểm của họ đối với "chính" cũng khác nhau, dù là hai phương diện trái ngược nhau nhưng cũng có thể đều cho rằng mình là chính nghĩa.

Đây là đề mục đầu tiên chúng ta phải đối mặt, "chính" là gì? Thế nào là "chính"? Một người ích kỷ sẽ nói: "Không phải tất cả mọi người đều như vậy sao?". Người thường xuyên cãi vã với vợ sẽ cho rằng cô ấy luôn không quan tâm đến mình, còn người con trai 10 năm không liên lạc với người mẹ 80 tuổi thì cũng hùng hồn đầy lý lẽ mà nói: "Bà năm ấy đối xử với vợ tôi tàn nhẫn vô cùng". Trong hoàn cảnh như vậy, một người 10 năm chưa bao giờ cho rằng mình sai, làm sao có thể đột nhiên kiểm điểm bản thân, hối lỗi? Thời cơ để họ kiểm điểm lại bản thân, hối lỗi là cái gì? Thời cơ này thường đến từ ngoại cảnh, chẳng hạn như một câu nói của Đài Trưởng trong một buổi Pháp hội nào đó, hoặc đôi khi ngồi trên xe cũng có thể sinh ra một ít ngộ tính, hình ảnh một người con trai đang đỡ lấy người mẹ già của mình, hoặc người đồng nghiệp tự kể lại về câu chuyện cũ của một người hàng xóm ở quê nhà … đều có thể là thời cơ tỉnh ngộ. Nhưng thời cơ phải dựa vào việc tích lũy công đức làm cơ sở, như người ta thường nói "tích lũy công đức", bất luận tụng kinh hay làm những việc thiện… đều là để tích lũy công đức, chỉ khi nào đến một trình độ nhất định thì mới có thể "nhất điểm tựu phá" (vừa điểm là có thể ngộ). Trình độ này dẫn tới nghiệp chướng "bất chính" được tiêu trừ, lau sạch những bản tính dơ bẩn che lấp tâm hồn. Chỉ khi đó quý vị mới có thể nhìn thấy bản tính "không ích kỷ", bản tính "yêu thương và bao dung", bản tính "hiếu thảo".

Đồng thời, trong thâm tâm chúng ta phải nhận thức được nguồn gốc tạo ra những dơ bẩn: tham, sân, si. Cuộc đời này 10 phần nhưng việc không như ý đã chiếm đến tám chín phần, và tám chín phần không như ý này đa số là do tham, sân, si, cho nên được gọi là "tam độc". Vừa mới kiểm điểm, nhận ra điểm sai của tâm ích kỷ nhưng chớp mắt, khi đơn vị bầu chức vụ mới, lại không nhường ai, lại cao ngạo "ngoài ta ra, còn người nào nữa?". Mới vừa đưa mẹ già trở lại, hoá giải mối quan hệ 10 năm lạnh lùng như băng đá, nhưng mẹ vừa nói một câu thì lại nổi trận lôi đình.Vừa mới nhìn thấy một chút bản tính thiện đã biến mất không dấu vết.

Vì vậy, nếu tam độc không được loại bỏ, thì sự tu tâm này sẽ là làm thì nhiều nhưng công thì ít, thậm chí là khó đi nổi một bước, cho dù là tu tập đã lâu tiếng tăm vang lừng cũng không thể có khả năng loại trừ tận gốc được tam độc. Chuyện này chỉ có thể tự mình giải quyết chứ người khác khuyên bảo, người khác giúp đỡ từ bên ngoài cũng không thể đóng vai trò quyết định, kể cả việc Đài Trưởng có ân cần dạy bảo quý vị khuyên quý vị đừng tham lam, đừng si mê nhưng nếu chính bản thân quý vị nhìn không thấu thì cũng vô dụng. Có không biết bao nhiêu nam nữ si mê trong duyên phận tình cảm, duyên phận đã hết mà vẫn đau khổ nhớ nhung, có biết bao nhiêu người sau khi đã giàu sang vinh hoa phú quý nhưng không biết bằng lòng với hiện trạng, trái lại được ăn cả ngã về không, ngày càng tệ hơn, lòng tham không đáy. Đây đều là nhìn không thấu, nhìn không thấu cuộc đời là ngắn ngủi, niệm niệm vô thường. Tuy rằng, chúng ta đều hiểu rõ về duyên phận và nhân quả, nhưng áp dụng nó vào bản thân mình lại là một chuyện khác, không phải là duyên khởi duyên tàn nữa mà là nhân quả của kiếp trước theo thời gian mà biến hoá. Nếu duyên phận đã xong mọi mối ràng buộc cũng không còn nữa. Không phải là lá rơi hoa bay của nhân gian nữa, tất cả đều là ảo ảnh mà thôi, phú quý ở đời đều có liên quan đến thiện nghiệp của mình ở kiếp trước, nếu muốn thì hãy tăng cường lập công đức để kiếp sau vinh hoa cả đời. Cho nên, tác hại của tam độc đồng hành với toàn bộ quá trình tu tâm, đồng thời cũng là thử thách lớn nhất mà những người tu tâm luôn phải đối mặt.

Đối phó với tam độc không có gì khác, "Giới, định, tuệ" chính là mấu chốt, tức là khắc chế chính bản thân mình trước, sau khi khắc chế, tâm sẽ yên ổn và có thể tiếp tục tu hành. Sẽ có một ngày có thể nghĩ thông nhìn thấu, đây chính là có được trí tuệ, từ đó độc này sẽ không còn tồn tại chất độc nữa. Ở giai đoạn tiếp theo, có lẽ tam độc sẽ xuất hiện dưới hình thức cám dỗ khác, sau khi nhìn thấu tài phú sẽ có sự cám dỗ về địa vị, sau khi nhìn thấu địa vị hư ảo sẽ có sự cám dỗ của nữ sắc. Nhìn thấu thân xác thối tha kèm theo những danh vọng dụ dỗ, và còn nhiều thứ khác nữa…

Không phải chỉ là cám dỗ, trên đời này ai cũng có phiền não riêng, việc nhà việc nước việc thiên hạ, việc gì cũng lo lắng, tâm phiền trôi nổi… Bị nhiều việc kìm hãm, thì sao có thể tu tâm?

Con người sinh ra trên thế gian này, chúng ta không thể tránh né phát sinh quan hệ với người khác, chúng ta có thể tự hạn chế không sinh ra ác duyên, lại không thể làm người xung quanh cũng đều không sinh ra ác duyên. Nếu người khác tạo ác duyên cho chúng ta cũng chính là lúc chúng ta đang trải qua sự bất công, bất bình, thậm chí là nhục mạ,và việc "nhẫn nhục tinh tấn" chính là phương pháp giữ gìn tâm hồn thuần tịnh của chúng ta. Nhẫn nhục không phải là biểu hiện của sự nhu nhược mà là pháp bảo duy nhất để không "tiếp nhận" ác duyên. Có người bắn một sợi dây hồng trần ác duyên vào mình, chúng ta trong lòng nổi giận, thì sợi dây hồng trần ấy liền dính lên người, từ giây phút này trở đi nhân quả của ác duyên này hình thành. Chỉ có nhẫn nhục, không tiếp nhận "ác khí" thì ác duyên mới không bén rễ, nhẫn nhục chỉ là biểu tượng nhưng điều đúng đắn nhất chính là tâm không nổi sóng, coi sự sỉ nhục bên ngoài như không có gì, và đây cũng chính là "cảnh chuyển tâm bất chuyển" của sự tu Tâm.

Mặt khác trong lòng còn cần loại bỏ một cái "chấp", cho dù là "ngã chấp" (chấp trước của bản thân) hay "tha chấp" (chấp trước của người khác), đều là do việc hiểu sự việc một cách không toàn diện mà tạo thành một loại thành kiến. Bởi vì trải nghiệm và cảm xúc trong cuộc sống của mỗi người là khác nhau nên họ hình thành một cách nhìn sai lệch mà bản thân họ cho là đúng. Nhưng có thể hình dung được rằng rõ ràng là do sự tồn tại của "chấp", nên chúng ta mới có những sai lệch khác nhau trong cách nhận thức sự vật và đạo lý. Nhưng khó khăn ở chỗ chính mình không tự biết, không phát hiện ra đó là thành kiến là cách hiểu sai lệch, như vậy quý vị sẽ bị những chân lý giả tướng này lừa gạt mà bám chặt vào nó. Giải pháp căn bản là bỏ cái "tôi", không dùng "tôi biết, tôi thấy" để nhận thức Phật Pháp, cũng chính là điều chúng ta thường nói học cách nhìn vấn đề "một cách biện chứng, một cách toàn diện", kết hợp thực tế trong cuộc sống để lý giải Phật Pháp. Tâm hồn phải được lau chùi thường xuyên để tiêu trừ nghiệt chướng, để những bụi của phiền muộn, của cám dỗ không còn chỗ nương náu, từ đó đạt được "tâm tịnh", tâm hồn thuần khiết, mục đích là để lộ ra bổn tánh. Sau khi Tịnh được đến mức độ nhất định, phần lớn bổn tánh sẽ được hiển lộ và không dễ dàng bị những thứ dơ bẩn che lấp nữa, lúc này chúng ta cần cẩn thận che chở - bồi dưỡng - phát triển nó, để nó không bị mất đi một lần nữa. Đây mới là sự khởi đầu của việc học Phật.

Như vậy có phải là chỉ khi thoát ly trần thế thì tâm mới có thể tịnh được không? Thế gian là nơi tu tâm tốt nhất, tâm không tịnh có ẩn trong núi sâu cũng không thể buông bỏ được. Cầu tâm tịnh cũng không yêu cầu mọi người phải buông bỏ mọi thứ, buông bỏ duyên phận, thậm chí tránh tiếp xúc với người khác để trốn tránh duyên phận, "tịnh" ở đây ám chỉ sự sạch sẽ - trong sạch - thuần khiết, không dính nhiễm tật xấu dơ bẩn cùng ác duyên. Cho nên tâm thanh tịnh - trong sạch là do tu tập mà có chứ không phải do trốn tránh mà có.

Tâm định là như thế nào?

Mỗi người đều từ những cơ duyên khác nhau mà bắt đầu tin Phật. Có người thì rất dễ dàng, lần đầu tiên nghe Pháp hội của Đài Trưởng đã kiên định học Phật. Có người nghe ghi âm chương trình và cảm thấy hoàn cảnh cũng giống như hoàn cảnh của họ, cho nên họ làm theo phương pháp Đài Trưởng dạy, thấy được hiệu quả, biết lời rằng lời mà Đài Trưởng nói là thật không giả dối cho nên mới tin. Mặc kệ là cơ duyên như thế nào, trong tâm đã tin rồi liền sẽ định. Nhưng định này chỉ là tạm thời, trên người hết bệnh rồi, đứa con nó có thể nói chuyện được rồi, và biết sự vĩ đại của Phật Pháp rồi, nhưng mà tôi rất bận, bận đến nỗi không có thời gian tụng kinh, hoặc lúc đầu tràn đầy năng lượng nhưng sau đó dần dần trở nên mệt mỏi, hoặc chỉ là dạy như thế nào thì làm như thế đó, không học tập thêm, không lĩnh ngộ thêm, cái này không phải là định. Lần sau gặp phải những vấn đề khác như mất việc hay vấn đề tình cảm, thì vẫn cứ luẩn quẩn ở vạch xuất phát không biết phải ứng phó như thế nào. Hoặc đã làm theo phương pháp mà Đài Trưởng đã dạy lần trước nhưng trong vòng một tháng vẫn không tìm được công việc mới; tại sao đã làm theo phương pháp của Đài Trưởng dạy cả nửa năm mà tình yêu vẫn chưa tới… sau đó bắt đầu nảy sinh nghi ngờ. Khi có nghiệt chướng thì mới có bận lòng, khi có vướng bận thì cái "tôi" sẽ chạy theo "vướng bận", tâm cũng sẽ không thể định lại được. Vì vậy, khi tu theo Phật Pháp Đại Thừa (pháp cứu độ chúng sinh), phải có Phật Pháp tiểu thừa làm cơ sở, trước hết hãy tự tu cho thật tốt và tu sao cho gia đình mình tốt.

Chỉ khi có "tâm vô quái ngại" mới có thể "vô hữu khủng bố". Mới nói đến việc tu tâm cứu độ người khác.

"Tâm định" có hàm ý của hai phương diện: một là tín niệm kiên định, hai là mục tiêu kiên định; nền tảng của nó dựa trên những nguyên lý rõ ràng, phải hiểu rõ sự khác biệt giữa pháp tại thế và pháp xuất thế, hiểu rõ nhân quả, hiểu rõ sự chân thực của thế giới tâm linh, hiểu rõ về lý do tại sao vận mệnh lại thăng trầm, hiểu rõ thiện duyên, ác duyên cùng nghiệp lực của con người có quan hệ như thế nào với tấm lưới hồng trần. Như vậy mới có thể định tâm mà tu hành. Đồng thời, chúng ta cũng phải hiểu được sự từ bi của Bồ Tát, sự vĩ đại của Bồ Tát là chân thật bất hư. Song song với việc Bồ Tát lắng nghe được tiếng cứu khổ thì chúng ta trước hết cũng cần phải làm tốt việc tụng kinh cho bản thân mình . Như vậy mới có thể tin tưởng và hiều rằng những khó khăn trước mắt đều có nguyên nhân và những khó khăn này cũng chỉ là tạm thời; từ đó đạt được tâm không thay đổi theo hoàn cảnh, cảnh chuyển tâm không chuyển, cảnh giới nhất tâm giác ngộ. Đương nhiên, đây là cảnh giới tương đối cao, có thể không phải tất cả chúng ta đều làm được, nhưng ít nhất nếu biết được phương hướng, thì chúng ta có thể hướng tới phương hướng này mà cố gắng, còn kết quả cuối cùng như thế nào thì phải đợi đến khi chúng ta tham gia kỳ thi, đợi đến lúc có kết quả rồi mới biết được.

Tâm không tịnh thì lay động, tâm tịnh thì định, tâm định thì sinh đạo. Nói tóm lại Phật Pháp là nhân sinh, nhân sinh là Phật Pháp, đem Phật Pháp ứng dụng vào cuộc sống, từ trong cuộc sống tham ngộ Phật Pháp, bền lòng vững chí, tự khắc sẽ từ từ nhìn thấy cảnh đẹp.