Tập 86 TINH TẤN LÀ CĂN NGUYÊN ĐỂ THÀNH PHẬT 10/6/2020
Hôm nay quý vị chứng được Phật tánh, thì đã khẳng định được quý vị là Vô ngã. Đã Vô ngã, tự nhiên sẽ không có chúng sinh, Vô chúng sinh, Vô thọ giả, cho nên cảnh giới Vô ngã chính là cảnh giới của Phật. “Chúng ta” có phải là “chúng sinh” hay không? Quý vị nói “chúng ta” cùng nhau làm việc tốt, “chúng ta” không còn nữa, “ta” không còn nữa, thì “chúng ta” ở đâu ra? Chúng ta, “ta” cũng không còn nữa, thì “chúng” ở đâu ra? Phải hiểu được cảnh giới của Phật. Tất cả phàm phu đều có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, “Đây là ta làm”, “Người này lợi hại”, “Người này tu rất tốt” v.v.. Tất cả đều là tướng chúng sinh và tướng thọ giả. Trên thế gian, những người đó dốc sức bám víu vào mọi quan niệm, dính mắc vào tất cả sự việc ở đời. Rất nhiều người bởi vì có ngã tướng, cảm thấy “sự việc này là tôi làm”, “sự việc này đáng lẽ phải là của tôi”, cảm thấy có “bản ngã” ở trong đó, cho nên họ không thể thực sự tìm được cảnh giới Vô ngã. Tôi tin rằng mọi người đều đã từng có kinh nghiệm này, mọi người đi tìm một đồ vật gì đó: “Tôi nhớ rõ ràng là để ở chỗ này”, quý vị sẽ dốc sức tìm kiếm ở chỗ đó, bởi vì quý vị có ngã tướng, trên thực tế ký ức này của quý vị là sai lầm. Quý vị nhớ để ở đó, quý vị đã tìm ở chỗ này vô số lần rồi, nhưng bảo quý vị xem xét lại một lần nữa, tìm lại lần nữa, quý vị vẫn tìm ở chỗ này, đây chính là bởi vì ngã tướng và chấp trước vào: “Rõ ràng tôi nhìn thấy ở chỗ này”. Cho nên quý vị phải làm cho bản thân trở nên Vô ngã: “Dường như tôi chưa từng nhìn thấy qua, tôi sẽ ở trong phòng tìm lại lần nữa”, quý vị sẽ tìm được rất nhiều chỗ không đáng tìm hoặc là trong tưởng tượng của quý vị không muốn tìm, thì quý vị sẽ tìm được đồ vật mà quý vị cần tìm.
Hai chữ “Vô ngã” nghe có vẻ trống rỗng, nhưng không có cái “tôi”, tại sao lại dùng cái “tôi” để làm việc? Cho nên con người chúng ta cần một cái tên đúng không? Gọi là cõi người. Còn giới động vật thì sao? Gọi là cõi súc sinh, nó cũng cần có một cái tên. Như vậy rất nhiều súc sinh đầu thai thành người, rất nhiều người tu thành Bồ Tát, vậy người này từ nay về sau liền không còn nữa, động
vật này cũng từ nay về sau cũng không còn nữa, có phải là Vô ngã tướng rồi không? Đó là tướng của một cái “tôi” mà thôi.
Quan niệm trống rỗng về “có tôi” chỉ là vì “tôi nghĩ vậy”. Cũng giống như người khác không biết quý vị, thì dù sao người ta cũng phải gọi quý vị bằng một cái tên đúng không? Khi quý vị đi trên đường, người ta không biết quý vị, dù sao cũng phải gọi là “ông” hay “bà” đúng không? Có một danh xưng để chỉ một người cụ thể. Nếu như người khác gọi quý vị là “ông”, quý vị không còn có cái tôi nữa, bởi vì họ chưa từng gọi tên quý vị, và thậm chí quý vị còn không biết họ gọi “ông” là đang gọi quý vị, thì có phải quý vị đã buông xuống rồi không? Bởi vì người ta không gọi quý vị. Ngay cả khi người này la mắng quý vị hoặc nói những điều tốt đẹp với quý vị, điều đó sẽ không ảnh hưởng chút nào đến quý vị, quý vị sẽ không bị làm phiền bởi tiếng kêu của họ. Vì sao có người lại bị người khác làm phiền? Tại sao có người lại bị người khác quấy rầy? Bởi vì tâm của họ đang lay động, cho nên khi gặp phải chuyện gì họ lập tức động tâm. Tật xấu của con người là cái gì cũng phải quản, cái gì cũng phải nghe. Thánh nhân là gì? Nếu quý vị kiểm soát được tai và miệng của mình, quý vị chính là vua của nhân loại, tức là Thánh. Cho nên Sư Phụ khuyên mọi người đừng bận tâm bởi tiếng nói của người khác hay những hình tướng giả dối của thế gian này, đây chính là điều mà Kinh Phật muốn chúng ta học được: “Tri vô ngã tức buông xả”, biết rằng đã không có “bản ngã”, thì quý vị nên buông xả Ngã tướng. Chỉ bằng cách này, mới có thể siêu thoát khỏi Tự ngã, và tìm thấy Phật tánh.
Được rồi, đó là tất cả cho buổi nói chuyện ngày hôm nay về《Bạch thoại Phật pháp》, sau đây Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện ngắn.
Xưa kia ở Thành Xá Vệ có một phú ông, sở hữu vô số tài sản, ông ta còn có một đứa con trai duy nhất tên là Nan Đà. Khi Nan Đà còn nhỏ, cậu ta rất lười biếng không phấn chấn, thích nằm trên giường ngủ. Lúc đó đừng nói xuống giường đi lại, cho dù có kêu cậu ta đứng dậy ngồi một lát cũng không chịu. Mặc dù bản
tính Nan Đà lười biếng, nhưng cậu có trí tuệ thông minh tuyệt luân, cậu ta nằm ở trên giường nghe người giảng giải kinh thư, hoàn toàn có thể hiểu hết những gì đang được giảng.
Phú ông rất vui khi thấy con trai mình giỏi giải kinh luận như vậy. “Các ông thấy đấy, đứa con trai này tuy lười, nhưng cái gì nó cũng hiểu, cái gì nó cũng nói được”. Ông liền mời ngoại đạo lục sư, những người như Phú Lan, đến nhà để dạy Nan Đà. (Phú Lan chính là nhà tư tưởng tôn giáo cấp bậc rất cao năm đó, mời những người đó đến dạy cho Nan Đà). Sau một bữa tiệc thịnh soạn mỹ vị, phú ông liền nói rõ tình huống đứa con trai duy nhất của mình với đám người Phú Lan: “Hy vọng các ông có thể giúp ta dạy dỗ đứa con trai trời sinh lười biếng này” (Thời xưa lười biếng không gọi là lười biếng, gọi là đãi nọa, tức là từ đãi của giải đãi, người này tương đối lười biếng giải đãi). Vì thế mấy vị sư ngoại đạo cùng theo phú ông đến phòng của Nan Đà, không ngờ Nan Đà nằm ở trên giường và phớt lờ bọn họ. Phú ông thấy con trai mình không thụ giáo (không thụ giáo nghĩa là không lễ phép, không nghe giáo huấn), ông vô cùng buồn rầu, đưa tay ôm hai gò má và nói: “Ôi ! làm thế nào cho phải đây!”
Đây là thời kỳ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang độ hóa tất cả chúng sinh, và cũng là thời điểm Đức Phật còn tại thế. Đức Phật luôn quan sát tất cả chúng sinh ngày đêm. Chỉ cần thấy chúng sinh đang khổ nạn, Đức Phật liền từ bi đến đó và thuyết pháp cho họ, để họ có thể tâm khai ý giải (có thể nghĩ thoáng và hiểu rõ), để tránh xa những phiền não và đau khổ. Điều Đức Phật thích làm nhất là giải thoát người khác khỏi những phiền não và đau khổ, cũng là đại từ đại bi.
Lúc này, Đức Phật nhìn thấy phú ông ở đằng xa đang lo lắng cho đứa con của mình. Bởi vì Đức Phật có khả năng nhìn từ xa nên từ xa Ngài có thể nhìn thấy phú ông này suốt ngày nghĩ: “Con tôi phải làm sao đây, con tôi phải làm sao đây?” Sau đó, Đức Phật và chư Tỳ-kheo đến nhà vị phú ông này. Điều kỳ lạ là ngay khi Nan Đà nhìn thấy Đức Phật, cậu ta liền đứng dậy và trải dụng cụ ngồi
cho Đức Phật (ngày xưa, tất cả những chiếc ghế dùng để ngồi đều được phủ bằng những thứ như chăn bông và chăn len), và đảnh lễ Đức Phật một cách chân thành kính trọng. Khi thấy Đức Phật đến, cậu ta liền đi xuống trực tiếp khấu đầu đảnh lễ. Vì vậy, Đức Phật đã khai thị cho Nan Đà đủ loại pháp yếu (Pháp yếu là yếu lĩnh của Phật pháp), trách móc cậu ta một cách gay gắt, mắng nhiếc và bảo cậu ta không được nằm trên giường, tham ngủ, không được giải đãi và nhiều lỗi lầm khác. Đức Phật đã trực tiếp nói Nan Đà. Vì Nan Đà rất kính trọng và tin tưởng Đức Phật nên cậu ta tự trách mình vô cùng về một số thói xấu trong quá khứ, cảm thấy xấu hổ và ăn năn.
Cuối cùng, Đức Phật tặng cho Nan Đà một cây trượng đàn (là một cây trượng gỗ đàn hương đỏ) đồng thời bảo cậu ta: “Này con trai, nếu sau này con có thể tinh tấn, thì chỉ cần con dùng tâm gõ nhẹ vào cây trượng đàn, nó sẽ phát ra tiếng nhạc tuyệt vời, và khi tiếng nhạc kết thúc, con sẽ có thể nhìn thấy tất cả các kho báu được chôn dưới lòng đất”. Chính là cây gỗ này. Con chỉ cần gõ vào nó sẽ phát ra âm thanh tuyệt vời, rồi đột nhiên con sẽ nhìn thấy rất nhiều kho báu chôn dưới lòng đất. Nan Đà sau khi nghe lời dạy của Đức Phật rất tò mò, liền thử gõ nhẹ vào cây trượng gỗ đàn hương. Sau một cú búng tay, quả nhiên nghe thấy tiếng nhạc tuyệt vời và nhìn thấy kho báu chôn dưới lòng đất. Cậu ta vui mừng vô cùng liền tự nghĩ: “Bây giờ mình chỉ cần chăm chỉ một chút thôi mà có thể được nhiều lợi ích như vậy! Sau này nếu nổ lực, nhất định mình sẽ được vô thượng đại lợi ích”. Người thời xưa đều nói “Vô thượng”, chính là vô cùng vô tận đại lợi ích, đạt được càng nhiều.
Kể từ lúc này, Nan Đà thay đổi thói quen ngủ nướng và tham ngủ, thậm chí còn kêu gọi mọi người ra biển thu thập bảo vật (ngọc trai, mã não, ngọc bích, v.v.). mỗi lần đi đều bình an thu hoạch lớn trở về, thậm chí còn cúng dường nhiều loại thức ăn và đồ uống cho Đức Phật và các vị Tỳ-kheo khác, trở thành một đứa con rất cần cù. Đức Phật vì thế mà một lần nữa thuyết giảng nhiều đạo lý khác nhau của Phật giáo cho Nan Đà, Nan Đà nghe được pháp hỉ tràn ngập, tâm khai
ý giải (nghe Phật pháp đến mức tâm khai ý giải, là người đó có thể tiếp nhận được pháp từ vị Sư phụ đó dạy cho họ rồi, “tâm khai” là vui mừng “ý giải” có nghĩa là hiểu được ý nghĩa, mà hiểu được ý nghĩa bên trong, thì tất nhiên là tâm sẽ được khai mở), liền cúi sát đất lễ lạy Đức Phật và phát đại thệ nguyện. Cậu ta nói: “Nguyện từ đây cúng dường thiện căn công đức, làm vị lai thế mê ngu si ám chúng sinh chi nhãn mục”. Nghĩa là nguyện từ nay cúng dường, lấy thiện căn công đức này làm tai mắt cho tất cả chúng sinh đang mê lầm, ngu si và có những suy nghĩ tiêu cực trong tương lai. (“mê ngu si ám” tức là không rõ thực lý, trong lòng có ngu si, nghĩ không thông; “ám” là năng lượng tiêu cực mà hiện nay chúng ta đang nói đến, trong lòng đen tối, nghĩa là trong lòng có rất nhiều năng lượng tiêu cực), “chúng sinh chi nhãn mục” - tức là con mắt, dẫn đường cho chúng sinh. “Vô quy y giả, vi tác quy y (nếu những người này chưa quy y, thì hãy làm cho họ quy y); Vô cứu hộ giả, tác vị cứu hộ (không có ai giúp đỡ họ, thì hãy giúp đỡ họ); Vô giải thoát giả, lệnh đắc giải thoát (nếu người này đang đau khổ và phiền não, hãy giúp đỡ họ và để họ được giải thoát); Vô an ẩn giả, lệnh đắc an ẩn (những người không an ổn, không có nhà cửa, trong tâm không có chỗ nương tựa, không có đạo tràng, làm họ có được sự an ổn); Vô Niết-bàn giả, lệnh chứng Niết-bàn (người hoàn toàn suy nghĩ không thông suốt, con muốn họ thông qua việc bố thí và đại thệ nguyện này của con, để cho họ chứng thực Niết-bàn, hoàn toàn nghĩ thông suốt). Các vị hãy nghĩ xem, các vị thường hỏi Sư phụ: “Thưa Sư phụ! Con phát nguyện rất nhiều rồi, còn có thể phát thêm nguyện gì nữa?” Quý vị hãy nhìn người ta mà xem, tuỳ ý cũng có thể phát nhiều nguyện lực như vậy. Quý vị còn hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, con gần như đã phát hết nguyện rồi. Cá con cũng đã phát nguyện thả rồi, Ngôi Nhà Nhỏ con cũng đã phát nguyện rồi, phát nguyện việc này việc kia rồi, không còn điều gì để phát nguyện nữa”. Con hãy nhìn người ta mà xem, chỉ cần con có phát tâm thì con có thể phát ra rất nhiều nguyện lực. Sau khi Nan Đà phát hoằng nguyện xong, Đức Phật mỉm cười nhẹ và từ miệng Ngài tỏa ra ánh tường quang ngũ sắc. Khi Đức Phật mỉm cười, từ trong miệng Ngài tỏa ra tường quang ngũ sắc, đó chính là
những đám mây ngũ sắc tuyệt đẹp lạ thường, đẹp như những đám mây đầy màu sắc trên bầu trời.
Lúc này, Tôn giả A Nan ở bên cạnh (A Nan luôn đi theo Đức Phật) nhìn thấy Đức Phật mỉm cười, liền cung kính hỏi: “Thưa Đức Như Lai tôn quý trang trọng, xưa nay Ngài không bao giờ cười tùy tiện, hiện tại là nhân duyên gì khiến Đức Phật mỉm cười như vậy? A-nan thưa với Đức Phật: Thưa Đức Phật, Ngài thật tôn quý trang trọng (chúng con vừa đến chùa thấy Đức Phật ngồi ở đó, mọi người vội vàng khấu đầu, trang nghiêm vô cùng), xưa nay Ngài không bao giờ cười tùy tiện (tượng Như Lai và Phật hiếm khi cười, rất trang nghiêm), bây giờ là nhân duyên nào khiến cho Đức Phật mỉm cười vậy?
Đức Phật hỏi A Nan: “Con có bao giờ thấy Nan Đà lười biếng đi xuống biển thu thập kho báu, mang đầy đồ trở về, còn cúng dường thức ăn và đồ uống cho Đức Phật và chư Tăng chưa?”
“Đúng vậy, con đã nhìn thấy.” A Nan nói.
Đức Phật tiếp lời: “Nan Đà trong tương lai sẽ thành Phật sau Tam A Tăng kì kiếp, với Phật hiệu là “Tinh Tấn Lực” và sẽ cứu độ vô lượng chúng sinh, vậy nên ta mới mỉm cười!” Điều này có ý nghĩa gì? Đức Phật đã nhìn thấy sau này Nan Đà thành Phật, nên Đức Phật rất hạnh phúc. Bởi vì Đức Phật thấy ai có thể trở thành Phật, thì từ trong tâm Ngài rất vui mừng. “Tam A Tăng kì kiếp” được đề cập trên là thuật ngữ Phật giáo, từ một vị Bồ Tát tu hành đến khi thành Phật, phải trải qua 3 “A Tăng kì kiếp”, thời gian dài như thế, tức là một thời gian rất, rất dài. Đó là lí do tại sao Phật mỉm cười. Sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, các Tăng chúng có mặt ở đấy nghe được lời khai thị lần này, ai nấy đều hiểu được tầm quan trọng của tinh tấn. Họ đều vui mừng, tin tưởng và làm theo.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng chỉ cần có ý chí thì ai cũng có thể thành Phật, và Phật ở trong tâm chúng ta. Nếu hành động theo lòng từ bi và ánh sáng
trong tâm thì Bồ Đề thuộc về tất cả chúng sinh, vì trí tuệ của Đức Phật thuộc về tất cả chúng sinh. Nếu không có chúng sinh, tất cả Bồ Tát sẽ không bao giờ có thể đạt được Vô thượng Chánh giác. Nếu không có chúng sinh thì làm sao có Bồ Tát? Bồ Tát muốn tuyên hóa Phật pháp Phật lý, Bồ Tát cần có khả năng giúp đỡ cứu độ khổ nạn, nếu không có chúng sanh, thì làm sao thành tựu được Phật Bồ Tát?
Vì vậy, “Dĩ thân như đắc giáo, tắc giáo tha bất nan. Dục giáo tha nhân, tiên tu tự giáo” (Nếu có thể dạy được chính mình thì dạy người khác không khó, muốn dạy người khác thì trước hết phải dạy chính mình)”. Kinh Phật thường nói với chúng ta rằng “Dĩ thân như đắc giáo”, nếu đã cứu độ được thân xác và tâm hồn của chính mình thì “tắc giáo tha bất nan”. Tức là quý vị đi cứu người khác sẽ không khó, chính bản thân quý vị còn chưa giác ngộ, thì quý vị dạy người khác sẽ rất khó. “Dục giáo tha nhân”, nếu quý vị muốn giúp đỡ người khác, cứu độ người khác thì phải “tiên tu tự giáo”, nghĩa là quý vị phải tự học trước, bản thân phải được dạy dỗ trước. Tu hành chính là sửa đổi quan niệm sai lầm của mình. Đôi khi quý vị đừng nghĩ rằng học Phật rất khó, vì Phật là ở trong tâm. Khi chúng ta gặp khó khăn, có người lười biếng, có người phiền não chồng chất mà quên mất đi bổn tánh của mình. Chúng ta nói “quên mất gốc rồi” là ý nghĩa này (“gốc” ở đây mà nói đó là bổn tánh). Thực ra, đôi khi quý vị gặp phiền não khi học Phật, nếu quý vị dừng lại một lúc, rẽ một vòng, quý vị có thể dễ dàng vượt qua được những trở ngại, nếu thành công thì quý vị sẽ đi đến đích. Vì vậy, Phật giáo dạy rằng để kỷ luật tốt bản thân, quý vị phải chăm sóc tốt bản thân và bổn tánh của mình. Đừng lúc nào cũng quản người khác, hãy quản bản thân mình trước rồi mới quản người. Đây là chân lý chân thực nhất, chân thành nhất mà Bồ Tát dạy chúng ta: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” (Nếu thật sự tu Đạo, thì sẽ không nhìn thấy lỗi lầm của thế gian). Nếu như quý vị thật sự muốn mình một kiếp tu thành thì trước tiên phải tự độ bản thân cho tốt, mới có thể độ hết được chúng sanh có duyên trong thiên hạ.
Được rồi, đó là tất cả bài giảng cho ngày hôm nay. Chúng ta sẽ tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp” trong chương trình tiếp theo. Cảm ơn đại chúng.