Tập 74 DIỆT TẬN PHIỀN NÃO CỦA TAM GIỚI 20/5/2020


Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Cuộc đời một con người thực ra được giải thích bằng rất nhiều câu chuyện.

Đời người của chúng ta là một sự đan xen giữa ưu và khuyết điểm (công quá tương tạp), bởi vì chúng ta vừa làm rất nhiều việc thiện, nhưng cũng lại làm rất nhiều việc ác. Tại sao trong mỗi người chúng ta lại có bi hoan ly hợp và khổ lạc? Trên thực tế chính là bởi vì sự đan xen giữa ưu và khuyết này. Nói cách khác, kiếp trước, kiếp này của quý vị đã làm rất nhiều chuyện thiện và cũng đã làm rất nhiều chuyện ác, cho nên kiếp này quý vị sẽ nhận được rất nhiều ác báo và cũng sẽ nhận được rất nhiều hạnh phúc, ưu khuyết điểm này không thể triệt tiêu lẫn nhau bởi đó đều là quả báo của các ác nghiệp và thiện nghiệp do chính bản thân quý vị tạo ra. Đó hoàn toàn không phải chỉ là một loại nhân duyên, mà là các loại nghiệp duyên tụ tập - bao gồm thiện duyên, ác duyên, đố kỵ duyên v.v.. Có một số người thì thích đố kỵ với người khác, vậy thì đó là đố kỵ duyên. Có người thì thích hận người khác, sinh ra liền hận, hận đến lúc lâm chung cũng hận, cho nên loại người này gọi là hận duyên, đủ các loại nghiệp duyên tụ tập.

Sau đây có một câu chuyện. Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở thành Xá Vệ, lúc ấy thành Xá Vệ do quốc vương Thắng Quang cai trị, Lộc Dã Uyển do quốc vương Phạm Thí chấp chính. Do một số mâu thuẫn, hai nước bắt đầu giao tranh, hai bên đều chịu thương vong nặng nề, khiến cho thiện duyên của 2 quốc gia nghèo này ngày càng ít đi.

Có một lần, quốc vương Phạm Thí chỉ huy xe, ngựa, voi và còn có bộ (tức là quân đội) tiến binh đến thành Xá Vệ, dựng trại bên bờ sông Khang Đan. Sau khi dựng trại không lâu, quốc vương Thắng Quang liền nghe được tin, biết bọn họ sắp đến đánh nhau, nên lập tức dẫn đội quân tinh nhuệ của mình ra đón giặc. Hai bên thực lực ngang nhau, nên giằng co quyết liệt để chia rẽ nhau và vẫn trong thế bế tắc.

Lúc này, vương phi của quốc vương Phạm Thí đã hạ sinh một cô con gái rất đoan trang, cả cung điện tràn ngập tiếng trống và âm nhạc để chào mừng sự ra đời của cô công chúa này. Quốc vương Thắng Quang sau khi biết được việc này, thầm nghĩ: “Chúng ta cùng nước Phạm giao chiến lâu như vậy, tiền đồ cũng không lạc quan, hai bên đều lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, chi cho bằng mượn cô con gái này để hòa thân {hòa hiếu kết giao}, làm dịu mối quan hệ giữa hai nước”. Sau khi quyết định như thế, bọn họ liền phái sứ giả đến nước Phạm Thí để cầu hôn, cầu xin quốc vương Phạm Thí gả công chúa vừa hạ sinh của họ cho quốc vương Thắng Quang làm vương phi. Thời xưa, chỉ cần sinh con ra, là có thể hứa gả cho người khác. Ngày xưa còn có một thứ gọi là “chỉ phúc vi hôn”, khi chưa sinh ra là đã nói: “Nếu đứa trẻ này sinh ra là nam, thì cưới con gái tôi; nếu là nữ, thì gả con trai tôi”.

Quốc vương Phạm Thí sau khi biết được ý đồ của quốc vương Thắng Quang, vừa đúng lúc muốn tìm đường thoái lui, thầm nghĩ: “Hai nước giao chiến cho đến nay, cả địch và ta đều tổn thất nặng nề, vì hắn đã đề xuất đến mối quan hệ hôn nhân, không chiến mà hòa, điều đó hoàn toàn phù hợp với ý của ta, mọi người coi như bỏ qua”. Sau đó ông liền nói với sứ giả, ông rất sẵn lòng hòa thân với quốc vương Thắng Quang. Từ đó hai bên biến chiến tranh thành tơ lụa, trở thành các nước láng giềng thân thiện.

Quốc vương Phạm Thí cử hành nghi thức ra đời long trọng cho cô công chúa, khi đặt tên cho cô, vì sự ra đời của cô khiến chiến tranh lắng dịu, cả nước được thái bình nên ông đặt tên cho cô là “An Ninh Mẫu”, và nuôi lớn cô bằng sữa bò, sữa chua, bánh rán. Không lâu sau, vương phi của quốc vương Phạm Thí lại sinh ra một cậu bé khác, tướng mạo của cậu bé cũng vô cùng trang nghiêm, họ liền đặt tên cho cậu bé này là “An Ninh”, cũng dùng sữa bò, sữa chua, bánh rán nuôi nấng cậu bé. Vị hoàng tử này lớn nhanh như hoa sen. Không ngờ hai anh em lại thân nhau đến mức tưởng chừng như không muốn rời xa dù chỉ một giây.

An Ninh Mẫu đã trưởng thành, lúc này quốc vương Thắng Quang chuẩn bị cưới nàng về nước, ông đặc biệt phái người đến để thỉnh cầu quốc vương Phạm Thí. Quốc vương Phạm Thí nói: “Nếu quốc vương Thắng Quang đã có tâm ý này, chúng ta hãy chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ”. Sau đó dựa theo ngày đã chọn, quốc vương Thắng Quang tự mình đến Lộc Dã Uyển nghênh đón An Ninh Mẫu, sau khi trở lại thành Xá Vệ, hôn lễ long trọng được tổ chức theo phong tục nước nhà.

Người em trai An Ninh vì tìm không thấy chị gái của mình, liền hỏi cha mẹ: “Chị gái đi đâu rồi?” quốc vương Phạm Thí nói: “Chị gái đã đi đến chỗ quốc vương Thắng Quang rồi”. Người em trai liền làm ầm lên: “Không, con cũng muốn đi”.

Cha mẹ nói với cậu ta: “Chị con đã lập gia đình rồi, chị ấy kết hôn, con đi theo làm gì? Con là hoàng tử của cha, sau này phải kế thừa kế ngai vàng, lo liệu quốc chính, con không thể đi được”. Mặc dù khuyên can nhiều lần, nhưng cậu bé này ngày nào cũng làm ầm lên, nhất định phải đến chỗ chị gái.

Sau đó quốc vương Thắng Quang liền nói với quốc vương Phạm Thí: “Để An Ninh đến đây đi, ta có thể đối đãi với hai chị em cô ấy như nhau”. Quốc vương Phạm Thí bất đắc dĩ, đành phải đưa con trai của mình đến thành Xá Vệ, cùng chị gái đoàn tụ.

Quốc vương Thắng Quang liền dạy An Ninh cách thành thạo nhiều kỹ năng khác nhau như cưỡi ngựa và bắn cung. Nhưng rồi không ngờ cậu bé An Ninh lại trở nên xấu tính và làm hơn trăm việc phi pháp, chẳng hạn như thường xuyên vào nhà chứa. Lúc này, An Ninh Mẫu và quốc vương Thắng Quang đã nhiều lần cố gắng thuyết phục người em đừng làm như vậy, nhưng đều vô ích. Không còn cách nào khác, họ đành phải phái người nói cho quốc vương Phạm Thí về hành vi xấu của An Ninh.

Quốc vương Phạm Thí năm lần bảy lượt gọi đứa con trai này trở về và nói với con rằng: “Con đừng buông thả bản thân như vậy. Là một hoàng tử, con sẽ kế vị ngai vàng và lo liệu quốc chính”. Nhưng An Ninh phàm không muốn hồi cung, cũng không nghe phụ vương dạy bảo, vẫn khư khư cố chấp. Sau đó quốc vương Phạm Thí đành phải tuyên bố từ bỏ mối quan hệ cha con với cậu ta. Tiếp đó, cậu ta đã bị quốc vương Thắng Quang đuổi ra khỏi cung điện vì hành vi cực kỳ trái pháp luật của mình. Thân vô y xứ (nghĩa là không có nơi nào để đi), cậu ta sống lăn lộn ở chợ, thực tế là lang thang khắp nơi.

Một ngày nọ, cậu ta trở lại hoàng cung, muốn tiến cung thăm chị gái của mình, nhưng bất luận như thế nào vệ sĩ cũng không cho vào cung. Cậu ta sinh khởi lòng căm hận tột cùng, nhìn vào trong cung mà không nói một lời nào, thấy chị gái đang cùng quốc vương Thắng Quang chơi tỳ bà trên ban công. Lúc này, An Ninh nổi lên sát tâm, hắn cầm lấy cung tên, giương cung bắn về phía quốc vương Thắng Quang. Nhưng vì quá xa, nên hắn chỉ bắn đứt dây đàn, chiếc đàn tỳ bà rơi xuống đất, và quốc vương hoảng sợ quay người bỏ chạy.

Quốc vương Thắng Quang phẫn nộ tột độ, thầm nghĩ: “Tên An Ninh này, hắn lại muốn giết ta? Ta phải giết hắn ngay lập tức! Nhưng dù sao hắn cũng là hoàng tử của quốc vương Phạm Thí, giết hắn e rằng quốc vương Phạm Thí không vui”. Ông suy đi nghĩ lại và nảy sinh ý định: “Phải kết tội hắn trước tòa và xử tử hắn”.

Trong nước Thắng Quang có hội nghị biện luận, thực ra là triệu tập mọi người đến họp, có một quy định: đối với những cuộc biện luận nhỏ, thổi hai con ốc biển để tập hợp đám đông (quốc gia trước đây rất nhỏ, nói như bây giờ thì nó là một tiểu bang). Đại biện luận chẳng những phải thổi ốc biển, còn phải đánh trống lớn. Lúc bấy giờ, quốc vương liền sai người của mình thổi ốc biển, đánh trống lớn, tập trung các đại thần và tất cả quan viên của thành Xá Vệ, đem An Ninh đến biện luận với quốc vương. Nói theo thời bây giờ, kỳ thực là để hắn có

câu bào chữa trước khi bị tuyên án. Rất nhiều người dân đã đến. An Ninh cuối cùng thua cuộc vì vi phạm hơn trăm điều luật. Theo lệ của đất nước lúc bấy giờ, hắn phải đeo một vòng hoa quanh cổ, chỉ cần hắn đeo vòng hoa này quanh cổ có nghĩa là hắn đã bị phán cực hình (tử hình), sau đó được giao cho đao phủ và sẽ bị dẫn đi diễu hành trên đường phố.

Lúc này, An Ninh mới cảm thấy hành vi của mình không đúng, và cảm thấy vô cùng hối hận. Hắn một mình kêu rên: “Trên đời này ai có thể đến cứu tôi!” Khi đó hắn mới biết mình sắp chết và vô cùng đau khổ.

Thích Ca Như Lai có đầy đủ vô lượng công đức cùng đại bi tâm, thời thời khắc khắc quan sát nhân duyên khổ lạc của tất cả chúng sinh. Bởi vì Đức Phật có thể quan sát thế giới và Ngài thường xuyên ngồi ở đó thiền định nên Ngài thực sự thấy được mọi sự việc đang diễn ra, Ngài có thể nhìn thấy nhân duyên khổ lạc. Tại sao lại như vậy? Lòng bi mẫn của Phật đối với chúng sinh, là trong phút chốc cũng sẽ không rời đi. Cho nên người học Phật phải biết, chỉ cần cầu Phật, cầu Bồ Tát, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu Đức Phật vĩ đại, cầu tất cả Bồ Tát, tâm đại từ đại bi của Bồ Tát trong phút chốc đều không rời khỏi chúng ta, cho nên mọi người phải học cách cầu Bồ Tát. Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni Phật) lúc đó liền quan sát và biết được, cơ duyên điều hóa An Ninh đã chín muồi, liền nói với các đệ tử: “Các đệ tử, chúng ta đắp y cầm bát vào trong thành hóa duyên thôi”. Đức Phật biết chuyện này đã xảy ra, Ngài liền bảo các đệ tử theo cùng đi hóa duyên với Ngài.

Đức Phật đang đi về phía trước, An Ninh đang diễu hành trên đường phố đã nhìn thấy Đức Phật từ xa. Vừa nhìn thấy Đức Phật liền sinh lòng hoan hỷ rất lớn (vậy nên chúng ta thấy pháp sư phải sinh khởi tâm hoan hỷ, bởi vì nơi nào có pháp sư v.v.. cũng giống như khi nhìn thấy Sư phụ vậy, nơi nào có Sư phụ đến sẽ có hỉ sự, sẽ có năng lượng tích cực tốt đến, vui vẻ vô cùng), sau đó lập tức tiến lên cung kính đảnh lễ, hắn quỳ ở đó và khẩn cầu Thế Tôn: “Bạch Đức Phật

từ bi, Ngài có thể cho con thêm một lần sinh mệnh nữa được không? Xin hãy cứu lấy con, cũng là do con nhất thời nông nổi”.

Đức Thế Tôn rất từ bi, Ngài nói với bọn đao phủ: “Các ngươi đừng giết hắn, hãy để hắn đi”. Bọn đao phủ bối rối nói với Thế Tôn rằng: “Thưa Đức Phật, xin hãy suy nghĩ về điều đó, chúng tôi không có hai cái đầu, nếu có hai cái đầu, chúng tôi có thể thả hắn ta, bây giờ chúng tôi thả hắn ta, đầu của chúng tôi sẽ không còn”.

Đức Thế Tôn nói với bọn đạo phủ: “Ta đi gặp quốc vương. Trước khi gặp quốc vương, xin đừng giết hắn ta”. “Được, được, được, vậy chúng tôi đợi Ngài”.

Đức Thế Tôn đến gặp quốc vương Thắng Quang và nói: “Thưa Đại quốc vương, xin hãy thả tên tội phạm đó ra, đừng giết hắn”.

Các vị quốc vương thời đó đặc biệt kính trọng Đức Phật, quốc vương Thắng Quang tự tin nói: “Bạch Thế Tôn, hắn đã phạm nhiều tội ác và đáng bị xử tử. Nhưng nếu Ngài chấp nhận hắn và hắn cũng nguyện ý xuất gia”, vậy thì chúng tôi sẽ thả hắn đi”.

Đức Thế Tôn đồng ý với quốc vương và nói rằng: “Được, vậy thì tôi sẽ thu nhận hắn ta”. Ngày xưa, ở Ấn Độ cổ đại, người ta rất tôn trọng Phật và Pháp. Xưa người ta nói rằng “xuất gia có thể tránh được án tử hình”. Chính là cái đạo lý này. Bởi vì đã xuất gia, sẽ không còn sinh hoạt như ở nhân gian nữa.

Sau đó, Đức Thế Tôn đem An Ninh về kinh đường, cạo đầu và thụ giới truyền pháp cho cậu ta. Không ngờ bản thân An Ninh lại tinh tấn tu trì, vì duyên phận chín muồi, hơn nữa rất nhanh diệt hết phiền não tam giới luân hồi (nghĩa là đã nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, chỉ cần làm thập thiện nghiệp, vĩnh viễn không làm điều ác nữa, thì sẽ miễn trừ tam giới luân hồi), chứng đắc được quả vị A La Hán.

Lúc này, có nhiều đệ tử Tỳ-kheo bên cạnh Đức Phật liền hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, Thái tử An Ninh đã làm đủ mọi hành vi không đúng pháp, trong lúc hành hình thì Thế Tôn, Ngài đã cứu cậu ta, độ cậu ta xuất gia, và làm cho cậu ta chứng đắc quả La Hán. Xin Ngài vì chúng con mà giảng nhân duyên trước sau đi”. “Đúng đó Đức Phật, hãy nói về nhân duyên trước sau đi”.

Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Này các vị Tỳ-kheo, không những đời này ta đã cứu cậu ấy, độ cậu ấy xuất gia chứng được quả vị La Hán, mà kiếp trước ta cũng đã từng cứu cậu ấy, khiến cậu ấy có được tứ thiền ngũ thông”.

“Đức Phật, xin hãy nhanh nói cho chúng con biết”.

“Cách đây rất lâu, Lộc Dã Uyển ở Ấn Độ có một vị quốc vương Thương Kỳ. Ở đất nước của ông ta có một kẻ độc ác đã làm nhiều hành vi không đúng pháp.

Sau đó hắn sắp bị kết án cực hình. Lúc hung thủ (đao phủ, người thi hành pháp) đang chuẩn bị giết hắn, thì hắn sinh lòng sợ hãi, thỉnh cầu và kêu cứu. Lúc đó, ở gần Lộc Dã Uyển có một vị tiên nhân, có đầy đủ năm loại thần thông, nhìn thấy hắn ta cảm thấy rất đáng thương và muốn cứu hắn. Khi ác nhân nhìn thấy đại tiên nhân, hắn cung kính đảnh lễ và cầu xin cứu mạng: “Thưa tiên nhân, xin hãy cứu tôi”. Tiên nhân liền để đao phủ thả hắn ta đi và không giết hắn. Các hung thủ (đao phủ, người thi hành pháp) liền nói: “Thưa đại tiên nhân, chúng tôi không có hai đầu. Bây giờ nếu không giết hắn, chúng tôi không thể làm được. Tiên nhân muốn bàn bạc chuyện đó với quốc vương nên liền dặn dò đao phủ: “Trước khi ta tìm được quốc vương Thương Kỳ, các ngươi đừng giết hắn”. Các đao phủ đồng ý. Tiên nhân đến gặp quốc vương để cầu xin, và quốc vương nói: “Nếu không giết hắn, thì Ngài nhất định phải dẫn hắn xuất gia”. Tiên nhân đã đồng ý, liền dẫn ác nhân này vào trong rừng, truyền thụ giáo ngôn cho hắn, hắn y giáo tu hành, chứng được tứ thiền ngũ thông.

Ở đây xin giải thích với mọi người: Nhiều người ở kiếp trước có thần thông nhưng kiếp này không nhất định có bởi vì chướng thai che đậy (tức là sau khi đầu thai chuyển thế bị che đậy rồi). An Ninh kiếp trước tuy rằng chứng được tứ thiền ngũ thông, nhưng kiếp này khi hắn bị trói đi diễu hành, hoàn toàn không thể hiển thị ra tứ thiền ngũ thông ở kiếp trước.

Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo rằng: “Này các vị Tỳ-kheo, bậc tiên nhân lúc bấy giờ chính là ta đã chứng ngộ Bồ Đề. Kẻ ác tức là thái tử An Ninh ngày nay, quốc vương Thương Kỳ chính là quốc vương Thắng Quang ngày nay. Trước kia khi cậu ta sắp bị xử tử ta đã cứu cậu ấy, khiến cậu ấy tu được tứ thiền ngũ thông. Bây giờ cũng là lúc An Ninh sắp bị xử tử, ta đã cứu cậu ấy, khiến cậu ấy chứng được quả vị La Hán Niết-bàn tối thượng.

Có nhiều vị Tỳ-kheo hỏi: “Xin hỏi Đức Thế Tôn, vậy nhân duyên gì mà An Ninh được tái sinh vào nhà của một vị hoàng thân giàu có, thân thể trang nghiêm, được Phật lệnh độ, lại có thể xuất gia và đạt được quả vị La Hán? Bạch Đức Phật, mong Ngài có thể giải thích nhân duyên trước sau”.

Đức Thế Tôn đáp: “Đây là nguyện lực của kiếp trước. Khi Hiền Kiếp thọ hai vạn tuổi, Nhân Thiên Đạo Sư, Như Lai đang chờ Giác Ca Diếp Phật xuất thế, có một vị chấp sự viên của tăng chúng cả đời làm việc cho tăng chúng, vất vả cần cù lao động, lúc lâm chung ông phát nguyện”. Ta cả đời xuất gia làm việc cho tăng chúng, mặc dù ta không có được công đức và cảnh giới gì, nguyện lấy thiện căn này tương lai khi Thích Ca Phật xuất thế, làm cho Phật vui mừng, xuất gia diệt hết phiền não tam giới, đạt được quả vị A-la-hán. Vị Tỳ-kheo chấp sự này chính là hoàng tử An Ninh hiện tại. Bởi vì nguyện lực của cậu ta đã chín muồi, nên trong đời này dưới sự chỉ dạy của ta làm cho ta hoan hỷ, cậu ấy xuất gia, tiêu trừ phiền não của tam giới, và đạt được quả vị A-la-hán”. Câu chuyện này nói cho chúng ta biết, thành công của mỗi người, duyên phận của mỗi người

với Bồ Tát, đều có gốc rễ, học Phật không phải là duyên phận chỉ xảy ra trong đời này. Đó là duyên phận bắt nguồn từ nhiều kiếp của chúng ta.

Vì vậy, mong rằng mọi người sẽ học Phật và tu tâm cho tốt, đừng vì gặp phải một chút phiền não, ngăn trở trên con đường tu hành mà chấp mê không ngộ. Khi con đường đời bị chặn lại, phải học cách rẽ và chọn cách rẽ. Khi tu tâm đến lúc không vui, phải học cách xem nhẹ nó, không nên nặng nề như vậy, qua rồi là được, thay đổi là ổn. Ở nhân gian, khi tình cảm của quý vị dần phai nhạt, khi chúng đã cách xa, khi chúng đã rời xa quý vị, phải học cách lựa chọn tùy duyên. Ở nhân gian, có một số chuyện gánh vác nhiều một chút, cố gắng một chút, có thể sẽ qua. Có những người từng làm tổn thương quý vị có thể sẽ dần bị lãng quên bằng cách cắn răng chịu đựng. Có những nỗi đau, hãy cứ mỉm cười rồi cũng cười qua, cười qua rồi cũng sẽ qua, khổ qua rồi cũng sẽ qua. Trái tim của người tu tâm, có đôi khi tổn thương, sẽ trở nên càng thêm kiên cường. Trên đường đời gập ghềnh, cứ bình thản trôi theo dòng chảy. Khi đắc ý, người học Phật chúng ta phải học cách xem nhẹ. Khi thất ý, người học Phật chúng ta phải học cách nhìn thoáng. Đừng quá chấp trước vào một quan điểm nào đó của bản thân mà khiến bản thân phải gánh vác gánh nặng và nghiệp chướng nặng nề trên nhân gian. Chúng ta thường nói: “Nghiệp của ai người đó gánh”. Đừng gánh chịu nghiệp chướng. Học cách “cần tu khổ luyện học Phật duyên” - tức là học tập duyên phận Phật cần phải tu khổ luyện, tu thành vô thượng Chánh đẳng tâm. Hy vọng mọi người nhất định phải nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, một kiếp tu thành mới là nguyện về trời đích thực của chúng ta.

Được rồi, cảm ơn đại chúng. Hôm nay bài giảng《Bạch thoại Phật pháp》xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại vào lần sau. Cảm ơn đại chúng.