Tập 65 CẢNH GIỚI KHAM NHẪN LÀ NỀN TẢNG CỦA PHẬT 9/5/2020


Quý vị thấy đấy trong Tâm Kinh thật kỳ diệu biết bao, Sư phụ càng giảng cho mọi người thì càng cảm thấy kỳ diệu. Bởi vì “Vô thọ tưởng hành thức”, “Vô sắc”, “Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc”, nếu cái gì cũng không có, thì quý vị liền có được bổn tánh. Nếu căn phòng này là của quý vị, quý vị cho người khác thuê, căn phòng này vốn trống rỗng, quý vị cho người bán kẹo thuê, và cho anh ta một phần tư không gian để bày kẹo. Quý vị cho người bán bột mì thuê, và lại chất bột mì vào. Quý vị lại cho người bán máy móc thuê, một phần tư cuối cùng cũng dùng để bày bán thứ gì đó, toàn bộ kho hàng đều cho thuê hết rồi. Không gian trong phòng này có phải đã được chất đầy rồi không? Vậy thì quý vị còn sở hữu bổn tánh của mình nữa hay không? Quý vị không thể sở hữu căn phòng này nữa và không thể làm bất cứ điều gì nữa, đúng không? Cho đến khi dọn hết những thứ này đi, quý vị sẽ sở hữu ngôi nhà ban đầu, đúng không? Vậy thì quý vị có được bổn tánh ban đầu rồi phải không? Chính là cái đạo lý này.

Cảnh giới thành Phật là cảnh giới viên giác (tánh giác viên mãn), khi thấy người khác không vui thì phải nhận ra: “Tôi đã làm gì sai?” Đừng nổi giận với người khác, nếu tức giận với họ thì chắc chắn bản thân có vấn đề. Nếu quý vị có cảm giác không tốt đối với một sự việc gì đó, tức là quý vị vẫn chưa “viên” (tức là làm cho sự việc này toàn vẹn), chưa giác ngộ viên mãn. Có một bộ kinh Phật tên là “Viên Giác Kinh”, chính là làm thế nào để giác ngộ viên mãn, thực ra nó có nghĩa là “Vô thủ vô chứng”. Mọi người đều nói: “Tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia”. Cuối cùng, trên đời không có thứ gì mang theo được. Chỉ có thành Phật mới có thể đạt được cảnh giới giác ngộ viên mãn thật sự. Cảnh giới viên mãn chính là đã chứng đắc Phật pháp viên mãn, hiểu được Phật pháp triệt để, thì mới có được cảnh giới của Phật. Chỉ khi quý vị hoàn toàn hiểu được một người nào đó mà quý vị yêu mến, thì quý vị mới có thể có được người ấy. Sau khi hiểu biết thấu đáo về đạo Phật thì mới có thể theo Phật tổ tiến về phía trước,

hiểu thấu đáo lòng đại từ đại bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát đã mang đến cho chúng ta sự yên bình và hạnh phúc vô hạn, thì chúng ta mới có thể có được Phật pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát.

Trong xã hội có một số người xem được một chút kinh văn, cảm thấy mình rất am hiểu, sau đó bắt đầu giảng - phạm giới vọng ngữ, không hiểu giảng lung tung. “Bất đắc chứng nhi loạn thuyết” có nghĩa là không có chứng ngộ Phật tánh, thì quý vị không được giảng lung tung. Cũng giống như một người, không điều tra thì không có tiếng nói. Quý vị có hiểu chuyện này không, hiểu rồi mới nói. Nếu quý vị không hiểu thì tại sao quý vị lại nói về nó? Nếu quý vị không hiểu mà nói ra, thì mọi người sẽ cười nhạo quý vị, cũng như nói với mọi người rằng: “Tôi không có đầu óc và tôi nói những điều vô nghĩa”. Vì vậy, đôi khi nhiều người phạm phải khẩu nghiệp, và một số thậm chí còn phạm tội đọa địa ngục.

Cho nên trong thực tướng “Thực vô Bồ Tát và chúng sinh”, là không có Bồ Tát và chúng sinh. Bồ Tát và chúng sinh ở đâu ra? Bồ Tát chính là chúng sinh, chúng sinh đã khai ngộ chính là Bồ Tát, Bồ Tát chưa khai ngộ chính là chúng sinh. Cho nên là để nói cho chúng ta biết rằng, trong đời sống của Như Lai chân thật là không có Bồ Tát và chúng sinh. Người có trí tuệ coi mọi người như một vị Bồ Tát, vị Phật tương lai. Nếu một người đối xử với người khác như Bồ Tát, quý vị có nghĩ rằng mọi người sẽ thích người đó không? Chắc chắn rằng người này rất tôn kính mọi người và họ sẽ không có tâm cống cao ngã mạn. Con người phải sống trong thế giới thực tướng, chính là thế giới của Như Lai chân thực. Trước hết không được nói dối, phải thừa nhận sự thật. Còn có một số người tu tâm, dù có nói cho họ biết chuyện này là thật, thì họ cũng không tin. Dù có nói sự việc này là sự việc của Như Lai chân thật, họ cũng nói “có thể không phải”, nên họ vĩnh viễn không thấy được cảnh giới chân thật của Phật, “tin thì có, không tin thì không có”. Thực tướng chính là chân tướng thực thực tại tại và sự hiểu biết về cảnh giới của Phật.

Phải quán thế gian khổ-không-vô thường. Thế gian này hết thảy đều là khổ-không-vô thường, có gì mà to tát lắm đâu, quá khứ đã đi qua rồi, một câu nói, một sự việc, nếu không có bản ngã thì sẽ được giải thoát, người được giải thoát sẽ có trí tuệ. Niệm kinh là sự khởi đầu của minh tâm kiến tánh, nếu chưa rõ ràng thì tụng kinh thường xuyên hơn sẽ giúp quý vị minh tâm kiến tánh. Tranh đấu của nhân loại chúng ta, từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay chưa bao giờ dừng lại, đây chính là nghiệp lực. Bởi vì nhân loại chưa đạt đến cảnh giới của Phật, chưa đạt đến cảnh giới của Bồ Tát, nên không thể thoát khỏi những vòng tuần hoàn ác tính đó. Vì vậy, khi nhìn thấy người khác, trước hết họ tìm tật xấu của đối phương, coi thường người khác, khen ngợi mình, đố kỵ người, khiến cho bản thân có được càng nhiều tham muốn ích kỷ hơn. Do bản chất xấu xa của con người, nên trong thế giới này mới nảy sinh ra đủ loại tranh đấu, đó là tham muốn sinh tồn mà sinh ra dục vọng, những dục vọng này khiến quý vị ở trong lục đạo không được siêu sinh và vĩnh viễn ở trong lục đạo luân hồi.

Quán Thế Âm Bồ Tát đảo giá Từ Hàng đến nhân gian chúng ta, khổ khẩu bà tâm khuyên can chúng ta, đến để điều phục và khơi dậy những thay đổi trong tâm thái chúng ta, để cho chúng ta hiểu được thế giới này hết thảy đều là khổ-không-vô thường. Chỉ bằng cách hiểu đúng Phật giáo, hoàn thiện Phật tâm nguyên thủy, khơi dậy Phật tánh bên trong và thay đổi thái độ của mình, thì mới có thể tìm thấy vị Phật chân chính trong cuộc đời. Phật ở xa tận chân trời, gần ngay trước mắt, chính là chân Phật trong lòng quý vị, chính là chân Phật trong trường thức thứ chín, Amala thức của quý vị, chính là lương tâm cùng bổn tánh của quý vị, là Phật tánh chân chính và cái tâm nguyên thủy của quý vị. Vì vậy, phải hiểu rằng học Phật chính là một loại hiểu biết, học Phật chính là giúp đỡ người khác, học Phật chính là chìa khóa để giải thoát bản thân khỏi mọi phiền não và buồn khổ hiện tại. Nếu hôm nay quý vị không làm được những điều này, có nghĩa là quý vị vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn luân hồi trong khổ nạn. Chỉ

có buông bỏ hoàn toàn thì quý vị mới được giải thoát một cách triệt để. Quý vị buông bỏ bao nhiêu, sẽ giải thoát được bấy nhiêu: nếu quý vị buông bỏ hoàn toàn, thì sẽ đạt được sự giải thoát hoàn toàn của đại viên mãn.

Được rồi, cuối cùng Sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện về Phật giáo.

Đức Phật năm đó cùng các đệ tử của Ngài mỗi ngày đi thác bát khất thực, là vì muốn giải quyết ấm no của bản thân sao? Không hẳn. Người xuất gia hoàn toàn có thể tự làm nông. Như vậy thác bát khất thực rốt cuộc là vì cái gì? Là muốn cho chúng sinh một cơ hội để phát triển thiện căn. Nhưng rất nhiều người không hiểu, cho rằng “Tại sao các vị không nấu ăn, mà lại muốn để người ta đến cúng dường cho các vị?”, trên thực tế, ý của Đức Phật chính là muốn thí chủ nhận được đại phúc báu. Quý vị thử nghĩ xem, nếu không có ai đến xin ăn, thì làm sao quý vị có thể bố thí được? Pháp thí, tài thí, vô úy thí mà quý vị bố thí ngày hôm nay, cần phải có người đến tiếp nhận, khi họ tiếp nhận bố thí của quý vị, thì quý vị sẽ có được đại phúc báu. Sau đây kể cho mọi người nghe câu chuyện này, chính là khiến cho một vị Bà La Môn cuối cùng đã giải quyết được những phiền não trong lòng và chứng đắc được Chánh quả.

Trong thành Xá Vệ có một vị Bà La Môn (Bà La Môn chính là bậc quý tộc có địa vị ở Ấn Độ năm đó), ông thông minh nhanh nhẹn bẩm sinh, suy nghĩ sâu sắc, hơn nữa còn có vô số của cải, phú khả địch quốc (tức là vô cùng giàu có), cả đời hầu như không có thứ gì ông muốn mà không có được. Dân trong thành thấy ông đều hâm mộ. Ông rất bài xích Phật pháp, ông thường nói một câu: "Bố thí là lãng phí tiền bạc, làm việc thiện là hành động vô nghĩa". Một chút căn Phật trong ông cũng không có.

Một buổi trưa hôm nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất hiển hóa thần túc thông, từ một nơi rất xa đến trước mặt vị Bà La Môn này, Xá Lợi Phất tay cầm bát đất đứng bất động (đột nhiên đứng bất động trước mặt vị Bà Là Môn này). Lúc này, vị Bà La

Môn đang chuẩn bị ngồi ăn, thì vô cùng tức giận khi nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất đột nhiên đến. Bình thường ông khinh thường người ăn xin, đang định mắng chửi, nhưng vừa mở miệng thì trong đầu chợt nảy ra một ý nghĩ, ông định làm cho vị hòa thượng này tự chuốc họa vào thân.

Thế là vị Bà La Môn quay người ngồi xuống, như thể ông ta không nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất, thậm chí không thèm nhìn một cái, không trục xuất cũng không hoan nghênh, ông không để ý đến Ngài mà tiếp tục ăn một mình. Một lúc sau, khi vị Bà La Môn này đã no nê, ông đổ nước định dùng để rửa tay và súc miệng vào bát khất thực của Tôn giả Xá Lợi Phất và nói: "Đây là những gì ta muốn bố thí cho ông hôm nay, ông có thể đi được rồi.” Không ngờ Tôn Giả Xá Lợi Phất không hề tức giận, ngược lại còn từ bi chúc phúc cho ông: "Cầu mong sự cúng dường chân thành của Ngài ngày hôm nay mang đến cho Ngài vô lượng phước lành trong trăm kiếp và hàng nghìn kiếp". Nói xong, Xá Lợi Phất quay người chậm rãi rời đi. Nếu dùng cách nghĩ của người hiện đại, thì điều đầu tiên hiện lên trong câu nói này là chế giễu ông, nhưng Xá Lợi Phất rất thành thật và cảm thấy rằng “Tôi vô cùng biết ơn bát nước mà ông cúng dường”.

Vị Bà La Môn nhìn bóng dáng Tôn giả đang dần rời xa, bất tri bất giác trong lòng chợt nảy sinh ý nghĩ sợ hãi, ông vừa đi vừa nghĩ: "Nếu Sa Môn này đi khắp nơi nói về hành động của mình và phô trương ra ngoài, thì chắc chắn người ta sẽ cho rằng ta là một quỷ ma keo kiệt không hề có lòng cung kính." Vị Bà La Môn càng nghĩ càng không yên lòng, vì vậy liền phái người hầu truy tìm Tôn giả Xá Lợi Phất về.

Sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất rời đi, Ngài trở về thẳng Tinh Xá. Ngài nghĩ: “Hôm nay tôi xin được bát nước này, tôi muốn mang lại lợi ích tối đa cho vị thí chủ này (nghĩa là biến nó thành một việc làm công đức).” Ngay sau đó, ông nghĩ ra một phương pháp. Ông đổ nước trong bát vào một cục bùn, rồi trộn đều lên, khi bùn thật mềm, ông lấy ra và rải ở bất cứ nơi nào Đức Phật thường lui

tới. Vào thời đó, Đức Phật và các vị Tỳ kheo đều đi chân trần, nếu có một cục bùn hòa trộn cùng với nước thì đi trên đó sẽ êm chân hơn. Rồi ông liền thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, vị thí chủ này bản tính keo kiệt, ông chỉ nguyện ý bố thí những thứ nước này. Tuy nhiên, để tránh cho ông ta sa vào ba đường ác, con đã dùng bát nước và đất bùn này để đắp đường cho Đức Phật, và cầu mong Đức Phật từ bi mà đi trên mảnh đất này, để vị Bà La Môn này có thể nhận được đại phước báu mãi mãi”. Tôn giả Xá Lợi Phất đều rất thành tâm, ông mong Đức Phật sẽ đi qua lớp bùn mềm do ông trải ra để vị Bà La Môn được phước lớn. Sau khi nghe Tôn giả Xá Lợi Phất diễn thuyết, Đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu của Xá Lợi Phất với lòng đại từ bi, rồi nhập định, đi trên đất bùn rồi bước tới.

Lúc này người hầu do vị Bà La Môn sai đến chứng kiến sự việc, ở bên cạnh vô cùng cảm động, lập tức trở về nhà Bà La Môn để cụ trần kỳ sự cho Bà La Môn (tức là lập tức báo cáo sự việc này cho Bà La Môn nghe): “Thưa Bà-la-môn, Đức Phật Tối Cao vô thượng vốn là hoàng tử của một vương quốc, nhưng nay Ngài đã từ bỏ ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương mà mọi người hâm mộ, dẫn dắt các đệ tử của Ngài tu hành và khất thực xin ăn. Ngài ấy không có thức ăn ư? Ngài ấy có. Ngài chỉ muốn mang lại phước báu cho tất cả chúng sinh, cho chúng sinh cơ hội để phát triển thiện căn, là do Ngài từ bi và không làm những việc khất thực này vì lợi ích riêng của mình. “Sau khi nghe điều này, vị Bà La Môn cảm thấy vô cùng hổ thẹn về những hành động và ý nghĩ xấu xa của mình nên đã đưa cả gia đình đến Tinh Xá để cầu xin sám hối với Đức Phật, mong Đức Phật tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của mình. Đức Phật đã truyền thụ cho ông tam quy y đồng thời thuyết pháp, vị Bà La Môn liền tiêu trừ mọi phiền não trong tâm và đắc đạo chứng quả.

Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng, chúng ta phải biết quan tâm và thấu hiểu người khác. Cuộc sống là một kiểu quan tâm và thấu hiểu người khác. Nếu quý vị biết quan tâm và thấu hiểu người khác thì quý vị sẽ bao dung với họ, cuộc sống sẽ ấm áp, cuộc sống sẽ bình yên, nhiều phiền não đến từ việc chúng

ta không thể thông cảm cho người khác. "Thiên hữu bất trắc phong vân, nhân hữu sớm chiều họa phúc." Cảm xúc của mỗi người sẽ thay đổi, chúng ta không nên quá quan tâm đến ý kiến và sự chấp trước của bản thân, chúng ta có thể hiểu người khác hơn. Một số người không hiểu nhau và đó là lý do tại sao họ không nhượng bộ và làm tổn thương nhau. Chúng ta nên nhận ra rằng mọi việc trên đời này đều có tiến có lùi, nếu biết nhường nhịn thì sẽ thấy được tâm bình thường quan trọng biết nhường nào. Có gì mà to tát lắm đâu? Tâm bình thường thôi, đời có gì mà không vui? Không cần phải đấu tranh với những chấp trước của chính mình, hãy tiêu trừ đi những cố chấp của bản thân. Điều mà một người cần trong cuộc sống là một trái tim hiểu người khác, một sự hồn nhiên như trẻ thơ, một trái tim trong sáng, một niềm tin, một cơ thể khỏe mạnh, một tâm thái cân bằng cũng như một giấc ngủ ngon và một trái tim nhìn về tương lai, tận hưởng cuộc sống và biết đủ. Người có thể thực sự hiểu Phật pháp là người có thể nhìn thấy tương lai và nhìn thấy ánh sáng. Chúng ta hãy học Phật và tu tâm, đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi. Dùng tấm lòng của một vị Phật để hướng tới Bồ-đề và ánh sáng với tinh tấn và nhẫn nhục mỗi ngày.

Được rồi, bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng hôm nay xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại mọi người vào tiết mục lần sau. Cảm ơn đại chúng.