Tập 57. LẤY VIỆC HỌC PHẬT THƯỜNG XUYÊN LÀM GỐC 2/5/2020
Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Việc chuyển hóa những tham muốn của bản thân là rất quan trọng, có rất nhiều người trên thế gian này suốt đời không biết cách chuyển hóa những tham muốn của mình. Lấy một ví dụ đơn giản, vấn đề này không phải của quý vị, quý vị một mực muốn cho bằng được, thì quý vị đã có tham muốn này rồi, nhưng quý vị cần phải chuyển hóa nó, vậy thì chuyển hóa như thế nào?
Tức là từ từ dùng một lối suy nghĩ đúng đắn, năng lượng tích cực và minh tâm kiến tánh khác để xem xét vấn đề mà quý vị đang nghĩ đến, khi đó quý vị sẽ nhận được một lời giải thích khác. Ví dụ: Hôm nay nếu ai đó mời quý vị tham dự một sự kiện, sự kiện này có thể gây hại cho người khác và quý vị tự nhủ với lòng mình rằng: “Tôi là người học Phật, tôi không nên tham gia vào những hoạt động như vậy”. Nếu quý vị có năng lượng tích cực trong tâm, thì quý vị sẽ chuyển đổi được suy nghĩ, liền đem mong muốn “muốn đi xem thử hay đi tìm hiểu một chút” thành “Chúng ta nên tử tế với người khác và không nên kết oán kết thù với người khác”. Cũng giống như khi chúng ta còn nhỏ, nhiều bạn cùng lớp nói: “Chúng ta hãy cùng nhau công kích người này”. Vì quý vị có năng lượng tích cực và suy nghĩ tích cực nên quý vị sẽ không tham gia. Thế nên, người học Phật phải hiểu được giác chiếu của trí tuệ, người có trí tuệ, họ có giác ngộ, họ có thể chiếu sáng tất cả thế giới nội tâm của mình, họ biết được điều gì có thể làm và điều gì không thể làm, đây chính là người học Phật khác với người không học Phật.
Người học Phật có được năng lượng tích cực, thì có được tuệ mệnh và sinh mệnh. Nếu một người không có năng lượng tích cực, thì họ sẽ có nội tâm cô đơn và trầm cảm. Có một số người cảm giác như cả đời họ mất đi linh hồn, họ gặp chuyện liền khó chịu, tai nghe không được Phật âm, ánh mắt bị ngũ dục lục trần hư ảo giả tướng che đậy, không cách nào lĩnh ngộ, không thể nhìn thấy ánh sáng của Phật Pháp. Rất nhiều người cả đời mang theo hy vọng đến thế gian này, họ hy vọng có thể làm được một việc gì đó trên thế gian này, nhưng họ đã quên rằng, mỗi người chúng ta đến thế gian này đều mang theo nghiệp chướng. Họ đến thế gian này, mặc dù mang theo hy vọng, nhưng nghiệp chướng của họ rất nặng, không thể tách rời bi thương và ưu sầu của bản thân. Họ rời khỏi thế giới Ta Bà với những giọt nước mắt, với những tham muốn mà họ không thể đạt được, bởi vì họ không tu hành, không minh tâm kiến tánh. Người mà không tu
hành, mỗi ngày đều sống trong ảo tưởng và ảo giác. Mỗi một ngày đều là tưởng tượng, thường xuyên ảo tưởng. Tham vọng giống như bọt biển trong biển cả mênh mông mịt mù, đó là những dục vọng của bản thân, bao gồm cả sở hữu và mất mát. Niềm hạnh phúc hay sự đau khổ mà bản thân đã từng có được, dù đã tan biến trong không khí, nhưng bản thân vẫn phải chịu đựng nỗi đau của sự biến mất đó.
Mỗi người chúng ta bây giờ, chỉ cần hồi tưởng lại một số chuyện bi thương trong quá khứ, sẽ luôn phiền muộn vô hạn. Những điều này tưởng như đã xảy ra trong tâm trí chúng ta, nhưng lại dường như chưa từng xảy ra, đó là vì quý vị đã đánh mất nó, nó không còn nữa, nên trong lòng mới có thể sinh ra phiền muộn hư ảo. Nếu không học Phật, thì quý vị sẽ luôn sống trong sinh mệnh nhỏ bé dơ bẩn trong tâm mình, cũng chính là quý vị sở hữu một thế giới nhỏ bé, một gia đình nhỏ bé, một con người trong những thị phi nhân ngã nhỏ bé, không bao giờ biết cách giúp đỡ người khác, không bao giờ biết là bản thân có thể thoát ra được khỏi Tam giới. Chúng ta đang ở trong cõi trần nhỏ bé, mờ mịt đến mức không thể tự cứu mình. Có một số người khi xảy ra chuyện rồi, không có ai để thổ lộ, không có ai để giãi bày, bởi vì họ không hiểu người khác và cũng sợ người khác không hiểu mình, cho nên họ vĩnh viễn quanh quẩn trong những đau khổ đó, cuối cùng họ cảm thấy thế giới này lạnh lùng như thế là cùng. Đó là cái vòng tròn nhỏ của chính họ, họ đã mất đi trí tuệ vốn có trong cái mà họ nghĩ là vương quốc sinh mệnh mà bản thân họ sở hữu. Trong ngu si, nhân sinh như mộng huyễn bọt bóng.
Chúng ta bất luận gặp phải chuyện gì phải hiểu được “thọ” – tức là tiếp nhận, chịu đựng. Chúng ta có bao nhiêu điều hạnh phúc cũng đã trải qua, bao nhiêu điều đau khổ cũng chịu đủ rồi, vĩnh viễn là chữ “thọ” này. Phật Pháp gọi “thọ” là “đã thành niệm cảnh”, tức là đã trở thành một cảnh giới ý niệm. Cả đời chúng ta đã đi qua bao nhiêu con đường trần thế, cả đời chúng ta đã làm bao nhiêu chuyện kinh thiên động địa và những chuyện khiến bản thân đau khổ tột cùng, đều là “đã thành niệm cảnh”, niệm cảnh chính là một ý niệm, một ý niệm chính là một cảnh giới. Trong giới Phật giáo nói “Nhất niệm thăng thiên, nhất niệm xuống địa ngục”, nếu niệm đầu nghĩ không thông sẽ khiến quý vị xuống địa ngục, nếu niệm đầu nghĩ thông suốt sẽ khiến quý vị thăng lên thiên giới. Giới Phật Pháp từ lâu đã gọi những thế giới nhân sinh hư ảo này là “chuyện cũ không gặp lại”, cũng chính là sự việc trong quá khứ sẽ không lặp lại cho chúng ta xem lần nữa. Mọi người thử nghĩ xem có phải là như vậy hay không, cảm giác thời tiểu học của chúng ta, bây giờ có còn không? Những cảm giác thời trung học,
hiện tại cũng không còn. Cảm giác chúng ta từng ở nhà, ở bên cha mẹ, bây giờ cũng không còn nữa, tất cả đã không còn tái hiện.
Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, tất cả những gì xuất hiện trong cuộc sống, bất kể cái thiện hay cái ác, điều mà quý vị không thích hay điều mà quý vị thích, tất cả hạnh phúc và nỗi buồn, quý vị không thể chiếm hữu nó mãi mãi, đó chỉ là một ý niệm của quý vị, chỉ là một chữ “thọ”, cho dù tiếp nhận hay chịu đựng qua rồi thì cũng sẽ kết thúc; chỉ có thể trải nghiệm nó, không thể sở hữu nó. Khi quý vị có được tất cả hạnh phúc trên thế gian này, đó cũng chỉ là “tiếp nhận một chút”. Khi quý vị đau khổ, thì đó cũng là cắn răng “chịu đựng một chút”. Bởi vì chúng ta là khách qua đường của thời gian, có bài hát là “Khách qua đường vội vã”, người đến người đi vội vã, khách qua đường vội vã, một ngày nào đó, quý vị sẽ nói lời tạm biệt với những gì quý vị cho là nỗi đau trên thế gian này, hoặc những gì quý vị cho là hạnh phúc trên thế gian này, quý vị cũng sẽ nói lời tạm biệt với chúng. Cuối cùng, Phật Pháp dạy chúng ta phải từ bỏ mọi thứ, vì trên đời này chẳng có gì để mất cả, chúng ta chỉ là kẻ đi ngang qua mà thôi. Hy vọng mọi người hiểu rằng, đời người không có gì là được hay mất cả, đó chỉ là sự trải nghiệm mà thôi. Học Phật chân chính đó là: hãy quý trọng những gì đang ở trước mắt, hãy tùy duyên mà buông bỏ những gì trong quá khứ, những điều sẽ đến trong tương lai, chúng ta phải đối mặt với nó một cách bình thản. “Chư pháp không tướng, huyễn hóa tồn chân”, thế giới này hết thảy đều là hư không vô tướng.
Đôi khi trả lời điện thoại, rất nhiều Phật hữu thường hỏi Sư phụ: “Trên đời này cái gì là mạnh nhất?”. Con người luôn cảm thấy rằng có một thứ gì đó mạnh mẽ nhất, có thể đánh bại những điều yếu nhất trên đời. Hãy nhớ rằng, nhân quả báo ứng là mạnh nhất, bởi vì nhân quả báo ứng không sai chút nào; Từ bi hỷ xả là lớn nhất, bởi vì chúng ta không thể sống mà không có từ bi hỷ xả. Chúng ta phạm sai lầm trong cuộc sống, chỉ có thể chờ đợi sự báo ứng. Cái gì mạnh nhất trên thế giới? Cường trung tự có cường trung thủ (Núi cao còn có núi cao hơn). Người ta nói “thép là mạnh nhất”, nhưng ngọn lửa có thể làm tan chảy nó; lại có người nói “ngọn lửa lớn là mạnh nhất”, nhưng có thể dập tắt nó bằng nước; cũng có người nói “mặt trời là mạnh nhất”, nhưng những đám mây vẫn có thể che phủ nó; “Bão tố là mạnh nhất”, nhưng núi cao có thể chống lại nó; “núi cao là mạnh nhất”, người leo núi có thể chinh phục nó; Cuối cùng, có người nói: “Cái chết là không thể thoát khỏi, đó là mạnh nhất, bởi vì không ai thoát khỏi cái chết”, nhưng đối với chúng ta là những người học Phật tu tâm, tâm hồn chúng ta sẽ không bao giờ chết, chúng ta sẽ tìm kiếm một cuộc sống mới. Người
học Phật mạnh nhất chính là nghị lực, rất nhiều Phật hữu học càng về sau không thể kiên trì được, vì họ không có được nghị lực giống như Kim Cương Bát Nhã. Tại sao lại có người bỏ cuộc? Bởi vì họ không có sự kiên trì, không có niềm tin. Người học Phật phải tìm ra một con đường giải thoát, cho nên chúng ta không sợ sinh tử, chúng ta có nguyện lực kiên cường, sẽ vượt qua khó khăn, vượt qua phiền não, hướng tới tương lai.
Người có chánh tri chánh kiến trong lòng họ có Phật, họ biết điều gì là đúng và họ sẽ kiên cường bước tiếp; Người có chánh kiến sẽ biết thị phi thiện ác, hiểu nhân quả, hiểu báo ứng. Con người nên biết được thế nào là tốt, xấu, lợi, hại, người khác đối với mình tốt như vậy, sao mình lại làm tổn thương họ? Nghe thì rất tự nhiên, nhưng ngoài đời có quá nhiều người khi quý vị càng tốt với họ, thì họ càng bắt nạt quý vị nhiều hơn, đây chính là lòng tham của con người gây ra, đây chính là tham muốn của con người gây nên. Bởi vì quý vị tốt với họ rồi, nên họ sẽ có nhiều tham muốn hơn và sẽ bắt nạt quý vị. Đôi khi nếu quý vị phớt lờ họ, ngược lại họ sẽ biết kiềm chế bản thân, điều này chính là họ không hiểu được chánh và tà, họ đang ở trong mê hoặc. Người khác đối xử với quý vị lương thiện như vậy, đối xử với quý vị tốt như vậy, nếu quý vị cho rằng điều đó là lẽ đương nhiên thì quý vị sẽ bị sa chân vào con đường sai lầm.
Người có trí tuệ là mạnh nhất. Nếu một người có trí tuệ, họ sẽ giải quyết được phiền não của mình, vì vậy trí tuệ là một báu vật vô giá, nó chính là báu vật vô giá trong cuộc sống của quý vị. Hôm nay, khi Sư phụ khai thị với mấy vị Phật hữu, đã đề cập đến báu vật vô giá của con người, trong cuộc sống còn có một điều vô cùng quan trọng, đó là thường xuyên phải có tâm hổ thẹn. Nếu một người có tâm hổ thẹn, cảm thấy mình làm chưa đủ, chưa đủ hiếu thuận, chưa đủ tốt với người khác, cảm thấy mình làm cho cha mẹ chưa đủ, giúp người khác chưa đủ, đối với sư trưởng của mình, đối với xã hội vẫn chưa đủ, điều đó chứng tỏ người này có tâm hổ thẹn, như thế thì họ mới có thể có được tâm tinh tấn. Tại sao có rất nhiều người không thể tinh tấn? Bởi vì họ không có tâm hổ thẹn, họ cảm thấy mọi người trên thế gian đều nợ họ và cảm thấy họ mang lại cho người khác nhiều hơn.
Phải hiểu được nhân nghĩa đạo đức, người có thể phân biệt đúng sai mới có thể đưa ra những phán đoán hợp lý. Một người từ bi, là người đó có thể hàng phục được tất cả, bởi vì họ biết rằng trên thế gian này không ai nợ mình và mình cũng không nợ ai, tất cả đều đầy lòng từ bi và trí tuệ. Giúp đỡ người khác và người khác giúp mình không phải là lẽ đương nhiên, mà đó là lòng từ bi của người
khác dành cho mình. Khi quý vị có được những ý nghĩ đúng đắn này, thì quý vị sẽ khắc phục được tà niệm trong tâm của mình, khi quý vị bị người khác bắt nạt, khi có oán kết, thì quý vị sẽ có được lòng từ bi trong tâm để hóa giải nó. Vĩnh viễn phải cảm thông người khác, vĩnh viễn phải hiểu rõ trên thế giới này thật sự lớn nhất, mạnh nhất là cái gì, chúng ta học Phật phải hiểu rõ, thật sự lớn nhất, mạnh nhất chính là từ bi hỷ xả, bởi vì nhân quả báo ứng là mạnh nhất, chỉ có từ bi hỷ xả, mới không động đến nhân quả báo ứng của quý vị.
“Tự do đi lại, vô trệ vô ngại, ứng dụng tùy tác, ứng ngữ tùy đáp, phổ kiến hóa thân, bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông, du hí tam muội, thị danh kiến tánh”, những lời này là trong “Lục Tổ Đàn Kinh”, chính là nói về một trái tim. Trong tâm phải có Phật, người mà có Phật trong tâm, thì tâm của họ có thể tự do tự tại. Bởi vì họ không làm hại người khác, thì họ mới có thể tự do tự tại, giống như khi lái xe trên đường, nếu quý vị không làm tổn thương đến những chiếc xe khác và người đi bộ, thì tất nhiên quý vị đang lái xe một cách tự do tự tại. “Vô trệ vô ngại”. không gì có thể ngăn cản được quý vị. Một người có tâm thái năng lượng tích cực, thì họ “ứng dụng tùy tác”, tức là bất luận chuyện gì xảy ra họ sẽ ứng dụng theo đó mà làm, “tùy tâm sở dục, sở tác sở vi” (tùy theo tâm nguyện, ý muốn mà hành động). “Ứng ngữ tùy đáp” Tức là tùy theo lời nói của người khác mà có thể đáp lại trả lời cho họ. “Phổ kiến hóa thân”, tâm ở nơi nào cũng đều là hoá thân của Bồ Tát. “Bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông”, chỉ cần có được Phật tánh và bổn tánh trong lòng thì sẽ có được thần thông tự tại, tức là sự tự do. Một người có lương tâm, đi đâu cũng không bị người khác công kích; một người có trí tuệ, đi đến đâu cũng tự do tự tại. “Du hí tam muội”, mọi người đều biết “Du hí thần thông Phật”, là vui chơi, thực hư bằng nhau, nghĩa là khi độ một người phải nửa thật nửa giả. Đôi khi, dùng một câu nói hài hước để truyền cảm hứng cho họ, cũng giống như lúc Tế Công Hoạt Phật ở nhân gian phổ độ chúng sanh, trong tâm Ngài bình tĩnh, bài trừ tạp niệm, lại dùng thái độ “Du hí nhân gian” để đối đãi với hết thảy chúng sinh khổ nạn, bởi vì Ngài coi thế gian này là hư ảo, chỉ là dạo qua nhân gian một vòng, chỉ là ở nhân gian nhìn thấu hồng trần và biết đây là một thế giới hư ảo, “Tam muội” là đại diện cho loại tâm thái trí tuệ này của Ngài. Vì vậy, “Du hí tam muội” là nửa thật nửa hư. “Thị danh kiến tánh”. Nếu nhìn thấy vạn vật trên đời này là hư ảo, tức là thấy được bổn tánh Như Lai chân thật của chính mình.
Trong kinh Phật nói tâm phi, si, loạn (“si” chính là ngu si, “loạn” chính là tâm rất bấn loạn, “phi” chính là có thị phi), đều cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng. Cũng chính là nói với mọi người, bởi vì quý vị có cảm giác về cái bản ngã
của mình, nên quý vị mới hài lòng về bản thân. Một số người cảm thấy hài lòng về bản thân và không lắng nghe những gì người khác nói bởi vì họ có tâm đúng sai và ngu si. Vì vậy, khi một người không lắng nghe người khác, thì họ rơi vào trạng thái ngu si; Hơn nữa, họ còn cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng (“thường hằng” tức là bất biến không thay đổi), cũng chính là nói, họ cho rằng quan điểm và suy nghĩ của họ đều là vĩnh cửu, là đúng đắn mãi mãi. Giống như rất nhiều những bậc phụ huynh như chúng ta, nhìn vào con của hàng xóm và cho rằng: “đứa trẻ này sẽ không được tốt, đứa trẻ này dù có thế nào cũng sẽ không khá lên được; Đến khi con của người ta lớn lên và có được triển vọng rồi lại cho rằng: “Đó chỉ là một sự tình cờ mà thôi”, bởi vì họ không nghĩ rằng người khác sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Kết quả của loại tự ngã này thực ra là một loại biểu hiện huyễn ảo của chân tánh. Vô phi, vô si, vô loạn, tâm chân thật thì phải, không có thị phi, không có ngu si, không có hỗn loạn, nhưng bởi vì cho rằng tự ngã thường hằng tồn tại và dùng một loại ý niệm cá nhân của mình để khống chế bát thức điền (thức thứ tám), nên mới có thể sinh ra đủ loại ý kiến đối với người khác. Cho nên chúng ta muốn thoát khỏi phiền muộn, thì phải vượt qua sinh tử, chính là phải biết cách nhận thức bổn tánh thật của mình. Quý vị phải tự mình trải nghiệm, phải nghiêm túc trải nghiệm và hiểu rõ bổn tánh của chính mình, gọi là “thể nhận tự tánh”. Nếu quý vị biết cách sống với cái thiện trong bổn tánh của chính mình, sống với trí tuệ và lòng từ bi của Bồ Tát, thì quý vị sẽ không còn rơi vào “phi, si, loạn” mà quý vị cho nó là tự ngã thường hằng. Nói một cách đơn giản, nếu một người không dính mắc vào một sự việc nào đó thì sẽ không nhập vào tự ngã thường hằng; Một người giỏi thay đổi quan điểm của mình, lắng nghe năng lượng tích cực, thì họ sẽ thay đổi những quan điểm về tự ngã thường hằng đó. Giải thoát là khám phá bản chất tốt đẹp của trái tim mình thông qua việc hiểu biết người khác; Thông qua sự giúp đỡ của người khác và sự hiểu biết của bản thân về Phật tánh, để thay đổi quan niệm, thay đổi bản thân. Không nên bị tạp nhiễm hay dính mắc vào mọi thứ trên thế gian này.