Tập 44. ĐƯỢC NGHE PHẬT PHÁP TÔN TRỌNG CÚNG DƯỜNG 15/4/2020
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện về thời Đức Phật còn tại thế.
Năm ấy Đức Phật thường xuyên đi hoằng pháp khắp nơi, khi Ngài hoằng pháp tại vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ, có một trưởng lão rất giàu có ở thành phố này, ông cưới con gái của một nhà quý tộc danh môn làm vợ. Ông đặc biệt thuê những nhạc công giỏi nhất trong thành hàng ngày chơi đủ loại nhạc hay để làm vợ ông vui lòng.
Vợ trưởng lão sinh ra một bé trai kháu khỉnh sau mười tháng mang thai. Đứa trẻ này sau khi sinh ra, tự nhiên được quấn trong một bộ quần áo dệt từ hoa Tu Mạn, không những mềm mại, nhiều màu sắc mà còn tỏa ra một loại hương thơm hiếm có trên thế gian, mang lại cho người ta cảm giác sảng khoái khi ngửi thấy. Vì lý do này, vị trưởng lão đã đặc biệt mời thầy bói địa phương đến xem tướng cho con trai mình. Khi các thầy bói nhìn thấy vẻ ngoài trang nghiêm và độc đáo của đứa bé, họ thốt lên: “Đứa trẻ này thật không thể tin được!” Họ hết lời tán tụng và lần lượt hỏi vị trưởng lão: “Có điềm tướng lành gì trong quá trình sinh đứa trẻ không?” Cặp vợ chồng trưởng lão đáp: “Đứa bé được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn đầy màu sắc trên thân..” Các thầy bói thấy khó tin nên đặt tên cho đứa bé là “Tu Mạn Na” (Tu Mạn Na chính là tên của loài hoa).
Tu Mạn Na lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, tính cách của cậu bé rất khiêm tốn, luôn dịu dàng và nhã nhặn với người khác, càng ngày càng hiếu thảo với cha mẹ, mọi người đều thích đến gần đứa trẻ này. Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là bộ quần áo hoa Tu Mạn trên người cũng lớn lên theo cơ thể của cậu bé, đứa trẻ lớn đến đâu thì quần áo cũng sẽ lớn đến đó, luôn vừa vặn và hoàn hảo.
Cặp vợ chồng trưởng lão biết rằng Tu Mạn Na có thể mặc được bộ áo hoa Tu Mạn trang trọng này trên người chắc hẳn phải có nhân duyên đặc biệt nào đó nên họ đã yêu cầu Tu Mạn Na đến vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ để xuất gia tu hành (ngày xưa muốn xuất gia không hề dễ dàng, đó là bước vào một loại cảnh giới của hoàng thân quý tộc, rất cao quý), đồng thời theo Tôn giả A Na Luật học tọa thiền và các pháp môn khác.
Sau khi xuất gia, Sa di Tu Mạn Na đã rất siêng năng học tập, dưới sự giảng dạy của Tôn giả A Na Luật, không bao lâu đã sớm chứng đắc quả A-la-hán, tiếp đó
cậu đã có được tam minh lục thông và có đủ tám giải thoát. Tam minh là thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh. Lục thông đó là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông, và còn có thần túc thông. Nói cách khác, đứa trẻ này có khả năng đặc biệt và có thể đi đến khắp mọi nơi. Có lẽ mọi người đều biết về những thần thông khác, nhưng lại không hiểu về lậu tận thông. “Lậu” thực ra có nghĩa là phiền não, nếu có thể loại bỏ hết phiền não thì sẽ không còn phiền não nữa. Đứa trẻ này được chư thiên thế nhân ngưỡng mộ và mọi người đều kính trọng nó.
Một hôm, Tôn giả A Na Luật bảo Tu Mạn Na đi đến sông Bạt Đề ở phía xa để múc nước tinh khiết cúng dường Đức Phật, nên Tu Mạn Na đã đến sông Bạt Đề. Sau khi đổ đầy nước sạch vào bình, cậu ta ném nó lên không trung, không ngờ bình thanh lọc đó trong không trung bay theo cậu ta , rồi đi theo Tu Mạn Na và bay về phía Tinh Xá Trúc Lâm. Các vị Tỳ kheo đang ở trong Vườn Cấp Cô Độc lúc bấy giờ ai nấy đều rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc bình chứa đầy nước bay qua, sau khi biết rằng Tu Mạn Na chỉ là một Sa di, đã xuất gia không được bao lâu, họ rất ngạc nhiên khi Tu Mạn Na có thể có được thần thông kỳ diệu như vậy và không thể tin được: “Cậu ta mới xuất gia, sao lại có thần thông to lớn đến như vậy?”. Sau đó tất cả chư Tăng kính cẩn đến gặp Đức Phật và xin Ngài chỉ dẫn: “Bạch Thế Tôn, Sa di Tu Mạn Na rốt cuộc trước đây đã tu loại phước báo gì, mà không những ở đời này, cậu ta còn được sinh ra trong một gia đình giàu có, hơn nữa lại được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân và sau khi cậu ta xuất gia không bao lâu, lại có thể chứng đắc quả vị A-la-hán và có được thần thông như vậy?” Khi ấy Đức Phật từ bi tiết lộ nhân duyên cho tất cả các vị Tỳ-kheo nghe. Đức Phật rất từ bi, chỉ cần ai hỏi Ngài điều gì, thì Ngài sẽ nói cho họ biết về nhân quả đó.
Cách đây chín mươi mốt kiếp, khi Đức Phật Tỳ Bà Thi còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài đã hoằng dương Phật pháp ở nước Ba La Nại và giáo hóa cho dân chúng, sau khi công đức viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn, tức là Ngài đã hoàn toàn chứng đắc vô thượng Không tánh, chứng đắc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc bấy giờ, vua Phạm-ma-đạt-đa còn là đệ tử của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài phát tâm xây dựng Tứ Bảo Tháp để cúng dường xá lợi của Đức Phật. Lúc này có một cậu bé chạy đến trước tháp, ngước mắt lên đảnh lễ bảo tháp: “Thật uy nghi, thật tốt lành, thật là một bảo tháp thù thắng và trang nghiêm!” Cậu cảm thấy hoan hỷ trong lòng khi nhìn thấy ngôi bảo tháp này, nên cậu đã phát nguyện sẽ xuất gia, nhưng từ khi còn nhỏ cho đến khi về già cậu vẫn chưa thể khai ngộ . (Cho nên đối với mỗi đứa trẻ, đi tu không nhất thiết là
đã khai ngộ, và học Phật cũng không nhất thiết là đã có trí huệ.) Cậu tự trách mình và sám hối rất nhiều trong suốt cuộc đời: “Tại sao mình tu cả cuộc đời mà vẫn chưa khai ngộ?”
Một hôm, vị Tỳ kheo tự trách này đã dùng hết tiền tiết kiệm của mình để mua hoa Tu Mạn, đích thân dùng chỉ mỏng khâu từng bông hoa Tu Mạn thành chiếc áo hoa Tu Mạn có thể che phủ toàn bộ bảo tháp và cúng dường Phật tháp xá lợi (Trải hoa khắp chùa, quý vị có thể thấy được nguyện lực này mạnh mẽ đến nhường nào), và phát nguyện: "Tôi phải được sinh vào thế giới của Đức Phật (nghĩa là sau này có tái sinh, nhất định phải được sinh ra trong thế giới của Đức Phật), theo Phật xuất gia và chứng ngộ đạo quả.” Trong những câu chuyện về các vị Phật này được Sư Phụ kể, nguyện lực của nhiều người là “Tôi phải được sinh vào thế giới mà nơi Đức Phật trụ thế.” Đây chính là đại nguyện lực.
Sau đó, Đức Phật bảo với mọi người rằng, vị Tỳ kheo Tu Mạn đã tạo công đức cúng dường này nên không bao giờ bị đọa vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ trong chín mươi mốt kiếp tới. Bất kể là thiên nhân ở cõi trời hay ở cõi nhân gian, vị Tỳ kheo này luôn mang theo y áo hoa Tu Mạn (tức là dù có là thiên nhân cũng có y áo hoa này, và ở cõi người cũng có y áo hoa này), và hưởng thụ phước báo của thiên nhân. Hơn nữa, nhờ công đức sám hối và phát nguyện, trong đời này, cậu ta đã có thể gặp được Đức Phật, theo Đức Phật xuất gia và chứng đạo quả. Vì vậy, mọi người phải hiểu thế nào là “sám hối và phát nguyện”, là sám hối sự ngu si, chưa khai ngộ của mình và “Con phát nguyện nhất định phải tăng trưởng trí tuệ của Phật”. Bởi vì khi quý vị phát nguyện sau khi sám hối, sức mạnh của lời nguyện đó đặc biệt mạnh mẽ và đặc biệt linh ứng. Vì vậy, Sư Phụ bảo quý vị hãy niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn trước khi phát nguyện. Khi Đức Phật giảng đến đây, mọi người đều nghe lời Đức Phật dạy, tuân theo lời dạy của Ngài và vui vẻ làm theo.
Điều này muốn nói với mọi người rằng một người có thể không khai ngộ, nhưng không thể không có tâm sám hối, một người có thể phạm sai lầm, nhưng không thể không có tâm sửa đổi. Trong 《Kinh Đại Bát Niết Bàn》 có nói: “Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật” Điều này chính là nói với chúng ta rằng, khi quý vị nhìn thấy kinh Phật và thấy xá-lợi Như Lai của Phật, thực ra cũng giống như nhìn thấy Phật vậy. Vị Tu Mạn Na này đã phát tâm xuất gia khi còn trẻ ở kiếp trước, nhưng khi về già ông vẫn chưa khai ngộ. Ông không vì thế mà đánh mất đi Bồ-đề tâm, ngược lại có thể nhìn lại và quán chiếu về chính mình ”Tại sao cả đời tôi đều không khai ngộ?” và cảm thấy ăn năn. Khi trong
lòng ông ta khởi lên sám hối, cùng lúc phát đại tâm nguyện, và cố gắng toàn tâm toàn ý nguyện cúng dường, cũng là lúc ông đã tạo ra được công đức cúng dường. Vì thế ông cảm được bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân mình khi vừa chào đời, còn được gặp Đức Phật tại thế và xuất gia tu hành, đó là quả báo thù thắng của chứng đạo Phật Quả.
Hôm nay chúng ta đang học Phật và đã được nghe Phật Pháp, chúng ta chính là những người rất may mắn. Tại sao suốt ngày chúng ta vẫn không trân trọng và hài lòng với nhiều thứ? Chúng ta có trí tuệ, nhưng trí tuệ này là trí tuệ của thế gian. Chúng ta phải biến nó thành trí tuệ và công đức của Phật. Và phải sám hối quá khứ của mình. “Sinh vào cõi Phật khó, gặp được chánh pháp thật khó.” Tuy ngày nay chúng ta không thể “tái sinh vào cõi Phật” (có nghĩa là Đức Phật còn sống ở thế gian này) nhưng chúng ta thật may mắn vì có được Chánh Pháp của Đức Phật vẫn còn ở trên thế gian, chúng ta vẫn có thể học tốt, và chúng ta càng nên nắm bắt các nhân duyên khác nhau, và cố gắng nghe Phật Pháp, kính trọng cúng dường và tinh tấn không lười biếng.
Nếu hôm nay quý vị trông thanh tú thì kiếp trước chắc chắn đã cúng hoa; nếu mắt tốt thì chắc chắn đã cúng dầu; nếu có tài hùng biện chắc chắn đã từng nói lời ái ngữ; nếu tâm trí quý vị thanh tịnh và không có tai kiếp thì chắc chắn kiếp trước quý vị đã từng tu hành. Vì vậy, mọi thứ đều “do tâm tạo ra” ở kiếp trước và kiếp này. Hôm nay quý vị muốn có tín giải hành chứng (tức là quý vị muốn giải thoát thì phải tin, phải tu và chứng đắc Phật quả), quý vị phải tin vào nó, phải “đạt được tâm ấn Cổ Phật”, và phải nắm chắc năng lượng tích cực của Bồ Tát, đặt nó vào trong tâm mình và để Phật tánh trong trường thức thứ tám gặp Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la trong trường thức thứ chín. Đây chính là Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la. “Khế hợp tâm Phật hợp nhất”, chỉ bằng cách này quý vị mới có thể một kiếp tu thành và vĩnh đoạn luân hồi.
Cảm ơn đại chúng, bài giảng hôm nay đến đây kết thúc. Chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.