Tập 39. CHỨNG NGỘ TÁNH KHÔNG, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN 11/04/2020


Nhớ lần trước sư phụ đã dạy mọi người về Không và Tánh Không, nhiều bạn Phật tử phản hồi hơi sâu nhưng vẫn có thể hiểu được và rất thích nghe, nên hôm nay Sư phụ sẽ giới thiệu sơ qua cho mọi người hiểu.

Rỗng Không là gì? Nếu để cho tâm trí của quý vị trống rỗng, thì quý vị có thể làm cho nó trống rỗng được không? Không thể rỗng Không được đâu! Bởi vì trong điền thức thứ tám, điền thức thứ bảy và điền thức thứ sáu của quý vị có rất nhiều ý niệm và tạp niệm, quý vị hoàn toàn không thể trống rỗng được. Vậy làm sao để làm cho nó trống rỗng đây? Có nghĩa là từ từ, từng bước, từng chút một, tẩy sạch mọi thói quen vô minh, phiền não vô minh, chướng ngại vô minh và nghiệp chướng trong các kiếp quá khứ ở trường thức thứ tám thức A-lại-da, rồi từ từ trút bỏ mọi thứ, giống như chuyển nhà vậy, giải quyết từng việc một, và dọn ra từng thứ một. Một khi đã dọn sạch, thì quý vị sẽ hoàn toàn vô tướng và nghĩ thông suốt. Sẽ không tiếp tục nghĩ không thông về những điều này nữa và sẽ không còn hình tướng nữa.

Sư Phụ đã nói với mọi người rằng, con người không chấp tướng về bất cứ điều gì, nghĩa là họ không bao giờ nghĩ: “Đây là việc tốt, tôi phải đi làm”. Thậm chí đi cứu người mà không hề suy nghĩ, và chưa bao giờ nghĩ rằng: “Tôi phải đi cứu người” cứu người thì cứ như vậy mà đi cứu thôi. Cứu người vốn dĩ là việc người Phật tử nên làm; một người tốt là làm việc tốt, làm mà như không làm, trong tâm có nguyện lực cũng giống như không có nguyện lực. Lấy một ví dụ đơn giản, mỗi người trong chúng ta đều đã phát nguyện với Bồ Tát rằng: “Con đã ăn chay”. Mỗi người chúng ta đã từng phát nguyện qua chưa? Đã từng phát nguyện qua rồi. Sau khi ăn chay, trong lòng đã nghĩ thông suốt: “Tôi ăn chay rồi và tôi sẽ ăn chay hàng ngày”. Khi quý vị đã ăn chay mỗi ngày, quý vị có nghĩ rằng: “Hôm nay tôi lại ăn chay rồi và hôm nay tôi lại thực hiện được lời nguyện của mình không”? Quý vị không nghĩ đến điều đó, vì quý vị cho rằng ăn chay đã là chuyện bình thường vì nó đã in sâu vào trường thức thứ tám rồi, đó là loại từ bi mà người học Phật hất định phải có, đây chính là Vô tướng. Sau khi Vô tướng sẽ Vô tác và Vô nguyện. (Tức là không mong cầu, không ham muốn)

Đây là điều Sư phụ nói với mọi người, Tánh Không tự nhiên là cảnh giới cao nhất. Tánh Không tự nhiên - tức là chúng ta không thể mong có được sự trống rỗng trong lòng mình, nếu quý vị nghĩ: “Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng”, thì sẽ không thể trống rỗng được. Làm việc thiện một cách tự nhiên, đó

chính là thực sự làm việc tốt; giúp đỡ người khác một cách tự nhiên, đó chính là thực sự giúp đỡ người khác. Nếu quý vị tự ép buộc bản thân mình và nói: “Tôi muốn làm điều tốt, tôi muốn giúp đỡ người khác”, vậy thì quý vị vẫn đang “làm” và vẫn còn “có hành động” (“vô tác” chính là tự nhiên), và không thể phản ánh lên được tánh Không. Quý vị nói: “Tôi muốn khiến tâm mình hoàn toàn trống rỗng”. Nếu quý vị có tâm niệm muốn “khiến bản thân trống rỗng”, thì quý vị vẫn còn có tâm muốn khiến mình được trống rỗng; nhiều người nói: “Tôi muốn trở thành Bồ Tát”, thì quý vị vẫn còn có cái tâm “Muốn trở thành Bồ Tát” này. Nhiều người hàng ngày đã làm việc Bồ Tát rồi và họ chưa bao giờ nghĩ rằng: “Tôi muốn thành Bồ Tát”. Nhưng họ đang làm việc Bồ Tát mỗi ngày. Đây chính là diệu dụng của Tánh Không, để quý vị có thể có được công đức lớn hơn..

Vì vậy, cảnh giới của quang minh là Vô tác. Khi cảnh giới của một người đạt đến một mức độ quang minh nhất định. Cũng giống như một người mà khi người khác nhìn thấy anh ta bước vào thì anh ta chính là người tốt, khi một người bạn cùng lớp bước vào, mọi người nhìn người bạn này và nghĩ: người này có thành tích tốt, bởi vì người bạn học này cho đến bây giờ đều có thành tích tốt mỗi ngày. Điều này chính là đã “Vô tác”, hôm nay khi bước vào lớp cũng không cần phải nói với mọi người rằng: “Hãy nhìn xem thành tích của tôi tốt như thế nào”. Nếu chúng ta trong tu hành mà có hành động, nghĩa là đã có tu và có chứng (đắc), thực ra đó vẫn là một loại tu vi có triển vọng. Nếu quý vị nghĩ: “Tôi đang tu tập, tôi có chứng nhận, tôi có chứng ngộ”, thì quý vị vẫn đang trong quá trình chứng ngộ. Sự chứng ngộ của Phật là không cần phải được “chứng thực”; Mà sự chứng ngộ của tánh Không vẫn nằm ở quá trình chứng ngộ. Tánh Không của Bồ Tát không cần phải chứng ngộ, Ngài nhất định là có Tánh Không Bát nhã, nên Vô tác tức là không tu và không chứng ngộ. Người đắc Đạo thì ngồi như thế nào, đứng ra sao và cho dù có nhảy lên thì họ cũng đắc đạo; ngồi xuống họ cũng là người đắc đạo; bước đi họ cũng là người đắc đạo; khi nhục thân đã kết thúc, pháp thân của họ bất sinh bất diệt và họ vẫn đang đắc đạo.

Nếu mọi người hiểu được những đạo lý này, thì sẽ biết tánh Không thật sự là gì. Sư phụ đang dạy cho mọi người cách đạt được tánh Không, Vô tướng và Vô tác. Việc này ngày nào tôi cũng làm, khi quen rồi thì coi như chưa từng làm qua, ngày nào tôi cũng trả lời điện thoại để giúp đỡ người khác, bỗng nhiên có người nói: “Bạn trả lời điện thoại, bạn đang giúp đỡ người khác, bạn đang độ người khác”. Nhưng người trả lời điện thoại lại không cảm thấy rằng: “Tôi trả lời điện thoại hàng ngày là tôi đang giúp đỡ người khác mỗi ngày.” Nếu Vô tác và Vô tướng, thì ý thức của quý vị tự nhiên sẽ

trống rỗng, bởi vì ý thức của quý vị hoàn toàn trong sự trống rỗng, vì hàng ngày quý vị làm việc thiện và giúp đỡ người khác nên ý thức của quý vị được giải thoát và bước vào vào tánh Không, quý vị sẽ nhập đạo một cách tự nhiên— đó chính là nhập vào Phật đạo. Người này trong 365 ngày mỗi ngày đều làm việc tốt, mỗi ngày làm một chút việc tốt, một ngày, hai ngày, ba ngày ... đợi đến khi một năm trôi qua, rất tự nhiên mà người đó trở thành "người tốt" rồi.

Một người bạn cùng lớp mỗi ngày đều làm việc thiện, sau một năm bạn ấy được đánh giá là “học sinh gương mẫu” thì đương nhiên bạn ấy sẽ trở thành “học sinh gương mẫu” và đã “nhập đạo” rồi. Bạn ấy trở thành "học sinh gương mẫu" chính vì sự thay đổi từng ngày của bạn ấy.

Khi chúng ta học Phật, bất kể là Đại thừa hay Tiểu thừa (ngày xưa nói “Thừa” thì thực chất có nghĩa là thuyền, Đại thừa và Tiểu thừa có nghĩa là một chiếc thuyền Pháp lớn để cứu độ chúng sinh, và một chiếc thuyền Pháp nhỏ để cứu độ chính mình), bất kể tôn giáo hay môn phái nào, mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm sự giải thoát. Có pháp môn hay tông phái nào mà cuối cùng không nhằm vào mục đích tìm kiếm sự giải thoát đúng không? Mục đích học Phật đến cuối cùng là gì, đó là để thoát khỏi phiền não, đau khổ và tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Vậy giải thoát là gì? Nhiều người cho rằng: “Tôi muốn giải thoát, tôi phải nỗ lực”, nhưng nỗ lực không phải là giải thoát, nhiều người nói rằng: “Tôi muốn giải thoát, tôi tin vào Bồ Tát”, nhưng tín ngưỡng không phải là giải thoát. Vậy giải thoát là gì? Giải thoát là sử dụng Phật tánh trong trường thức thứ chín của quý vị để tạo ra một loại trí tuệ và Bát nhã của tánh Không, tác động đến A-lại-da thức (là thức thứ tám) và Mạt-na thức (là thức thứ bảy) của quý vị, và từ từ di chuyển vào thức thứ sáu của quý vị, đó là thức của ý thức giác quan. Dần dần, quý vị sẽ hiểu rằng mọi thứ đều là khổ-không-vô thường, và mọi thứ vốn dĩ đều là trống rỗng và hư ảo. Khi quý vị hiểu được tất cả những điều này, thì quý vị sẽ bắt đầu đạt được những thành tựu to lớn trong việc học Phật, bởi vì quý vị đã bước vào cảnh giới của Phật. Vì vậy, chỉ khi một người có thể bước vào cảnh giới của Phật, thì người đó chính là Phật ở thế gian.

Học Phật không phải là bái lạy Phật, mê tín, hay cầu xin Bồ Tát phù hộ cho gia đình tốt, hay là một loại phúc báo, mà chính là giải thoát. Nó không phải là mê tín, đó là sự giải thoát của trí tuệ và giúp con người hoàn toàn buông bỏ những lo lắng. Nếu hôm nay vẫn không buông bỏ được thì sẽ không thể tinh tấn và cũng không thể nhẫn nhục được; nếu hôm nay không buông bỏ được thì sẽ không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi của cõi người, vì vậy cảnh giới của quý vị sẽ không bao giờ có thể nâng cao đến mức độ chánh tín và chánh niệm. Sự khác biệt giữa chánh tín chánh niệm và trí tuệ là gì? Người có chánh tín chánh niệm sao lại không có được trí tuệ? "Tôi tin chắc rằng đây là chánh đạo." Nếu thậm

chí không có được chánh niệm và ý nghĩ đúng đắn như vậy thì làm sao đạt được trí tuệ Bát nhã của Bồ Tát? Phải hiểu được cái đạo lý này. Phải rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội Phật. Điều sư phụ đang nói với mọi người là hãy buông bỏ cái tâm bên ngoài của chính mình. Rời khỏi tâm là rời khỏi một số tạp niệm, tạp tâm, phàm tâm, tâm phiền não, tâm đố kỵ và một số tâm thái xấu để lĩnh hội Phật pháp, gọi là “ly tâm ý thức tham”(rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội). Khi tu đến cuối cùng, ngay cả ý thức của nội tâm cũng mất đi, để lĩnh hội Phật pháp thì quý vị sẽ có được tánh Không và tham ngộ. Đây chính là những diệu dụng của đạo Phật.

Chúng ta cần hiểu những điều này và dần dần chúng ta sẽ biết cách kiểm soát sáu căn của mình. Phật học chia sinh mệnh của chúng ta thành sáu cơ quan: mắt

, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đối với ngoại trần (lục trần của bên ngoài) mà nói, thì sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Phật pháp lại chia chúng ta thành năm uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức. Sư phụ giảng cho quý vị hiểu, hàng ngày sáu căn của chúng ta sẽ tiếp xúc với ngoại trần: mắt chúng ta sẽ tiếp xúc với sắc (nhìn thấy), tai chúng ta sẽ tiếp xúc với âm thanh, mũi chúng ta sẽ ngửi thấy hương thơm, lưỡi chúng ta sẽ có cơ quan vị giác và cơ thể chúng ta sẽ có sự tiếp xúc. Sáu căn bên ngoài của con người liên quan đến sáu trần bên ngoài (gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), trong quá trình tiếp xúc nếu sinh ra chánh niệm, thì quý vị có chánh tín; Nếu quý vị tiếp xúc với ngoại trần và sinh ra tà niệm, thì quý vị sẽ có tà tín - tức là không có chánh tín. Làm sao để phân biệt được những loại này, để mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; dù cho đã tiếp xúc rồi, chúng ta cũng có thể khắc phục được nó và biết cái nào là đúng, cái nào là sai, thì chúng ta cần sử dụng năm uẩn của mình. Để hiểu được năm uẩn, phải hoàn toàn nhận thức thấu đáo về năm uẩn và hiểu được đạo lý của chúng thì mới có thể ngộ đạo. Trong “Tâm Kinh” có câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.

Từ đây mọi người sẽ biết “ngũ uẩn” quan trọng thế nào đối với cảnh giới của người học Phật.

Duy Thức Tông chủ trương vạn pháp duy thức, tức là bất kể thế giới này xảy ra chuyện gì, đều là do ý thức gây ra biến hóa. Khi thế giới vật chất và đời sống tinh thần kết hợp lại với nhau, chúng được chia thành 8 loại “thức”, đây là một hệ thống khác nên giới Phật giáo nói đến “bát thức điền”. Trong tám thức của quý vị, ý thức thứ sáu là tư duy ý thức đầu tiên tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thực tế người ta thường nói đến thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám,

thông thường chúng ta không nhắc đến thức thứ chín. Thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, theo thuyết về thức, thì đều khởi lên từ tâm. Ví dụ, cái cảm giác của thức thứ sáu có phải là được phát sinh từ tâm không? “Cái này rất nóng”, “rất tốt”, “bây giờ trời lạnh” - đây là thức của tâm có phải không?

Thức thứ bảy, “người này rất tốt, tôi rất thích họ". "Họ là người xấu, tôi rất ghét họ" – Phân biệt ý thức có phải cũng là duy tâm không? Một khi ý thức này đã nằm sâu thẳm trong tâm hồn và không thể phai mờ, đã tồn tại trong thức thứ tám trong tâm của quý vị, vậy thì có phải là tâm thức của quý vị đã tồn tại không? Nếu tâm thức của quý vị không tồn tại, thì thức thứ tám không thể tồn tại, vì vậy đó chính là chủ nghĩa duy tâm. Duy thức luận chính là đang nói đến tất cả vạn pháp duy thức - tức là ý thức của quý vị.

Bát thức (tức là thức thứ tám) là vua của tâm. Vua của tâm là cái gì? Một khi đã tiến vào thức thứ tám của quý vị thì khó có thể thay đổi, tốt hay xấu đều ở trong tâm quý vị. Ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này xấu, nhưng nó có khả năng tốt trong xã hội thực tế, nhưng quý vị không biết nó tốt; ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này có mùi khó chịu, nhưng người khác ăn rồi đều thấy nó ngon, nhưng quý vị vẫn cho rằng nó có mùi hôi, vì nó đã được định sẵn trong thức thứ tám, nên quý vị sẽ không nghĩ nó có mùi thơm. Đây là sự khác biệt giữa quan niệm của mỗi người. Khi quý vị thường xuyên phạm sai lầm và sau khi ý thức thứ sáu của người khác bị kích thích, việc nhận dạng của ý thức thứ bảy sẽ dần dần được biết đến, khi đó sẽ bước vào ý thức thứ tám và sẽ khó thay đổi được quan điểm của người khác về quý vị. Vì vậy, chúng ta không thể thường xuyên làm điều sai trái trong vòng luân hồi, và chúng ta không thể thường xuyên phát nguyện trong luân hồi: “Con phát nguyện, và con sẽ không bao giờ làm điều đó nữa …” làm người phải có khí phách. Có bao nhiêu người trong số chúng ta đã quỳ trước Bồ Tát phát nguyện và đã sửa đổi được chưa? Quý vị thấy trong "Phật Tử Thiên Địa Du Kí", có rất nhiều người bị lôi xuống, nói rằng họ đã từng học Phật và đã từng muốn sửa đổi, nhưng cuối cùng họ không sửa đổi. Tại sao vậy? Đó chính là liệt căn tính.

Sư Phụ nói với mọi người rằng vua của tâm là thức thứ tám và đừng bao giờ bước vào thức thứ tám. Bởi vì tâm của quý vị chính là ý của quý vị, vậy nên người ta mới hỏi câu: "Bạn nghĩ sao về chuyện này?" "Bạn đã nghĩ gì về nó chưa? Cuối cùng là bạn nghĩ sao?" Thực ra đây là đang đề cập đến ý thức thứ tám. Phân loại ý thức của tâm thành ba cấp độ. Ví dụ: Tâm của quý vị là biển rộng, thì ý niệm của quý vị giống như những cơn sóng trên biển, hết ý niệm này

đến ý niệm khác trỗi dậy. Quý vị suy nghĩ không ngừng nghỉ, và ý niệm cũng vậy. Trong “đại dương”, tâm của quý vị bị khuấy động bởi tầng tầng lớp lớp sóng lớn xô vào nhau, cũng giống như những bọt sóng trên biển. Vậy nên, Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu được Vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức. Bất luận là thế nào đi nữa, hãy bảo vệ tâm của mình. Bồ Tát đã nhiều lần dạy chúng ta phải tu tâm, vừa mở miệng là phải tu tâm; tu tức là tu chứng, nếu quý vị có thể tu chứng được tâm của mình thì quý vị đã tu tâm thành công.

Do đó, có một mối liên hệ tự nhiên giữa tánh Không, Vô tướng, Vô tác với tâm, ý, thức của quý vị. Quý vị thử nghĩ xem, nếu quý vị đã trống rỗng thì tâm của quý vị cũng phải trống rỗng; Vô tướng nghĩa là ý thức và ý niệm của quý vị phải không có hình tướng; Vô tác có nghĩa là “Tôi chưa làm qua điều đó” trong ý thức của tôi. Sư phụ sẽ lấy một ví dụ, ví dụ như quý vị muốn lợi dụng người khác, trong đầu quý vị lại nghĩ: “Việc này rất bình thường, mình lợi dụng anh ta thì có sao đâu? Anh ta cũng lợi dụng mình.” Sau đó, ý thức của quý vị sẽ bắt đầu sản sinh ra một loại hành vi đó là “Tôi sẽ làm điều đó, và tôi sẽ làm điều gì đó với anh ta." Vậy thì cái “thức" này đã thành công. Tâm, ý, thức có liên quan gì đến tánh Không, Vô tướng và Vô tác? Nếu quý vị không có ý kiến với người này và không muốn lợi dụng người đó thì trong suy nghĩ của quý vị sẽ cảm thấy rằng đều là bình đẳng giống nhau, mình không nên làm như vậy - tức là đã trống rỗng. Sau khi trống rỗng, quý vị nghĩ “Anh ấy giống như anh chị em của mình nên mình không thể coi anh ấy là người xấu mà trừng phạt và đối xử tệ bạc với anh ấy” - tức là quý vị đã vô tướng rồi. Đã không có hình tướng, thì làm sao quý vị có thể làm những hành vi đó đối với anh ta, làm sao quý vị có thể đối xử tệ với anh ta nữa chứ? Chính là mối liên quan này. Đây chính là điều mà sư phụ đang giảng với mọi người, “Vô tác” - tức là không có làm, vì tâm quý vị không muốn làm nên quý vị sẽ không làm; tâm quý vị đã trống rỗng, thì quý vị sẽ không muốn làm nữa. Nhưng nhiều người tâm của họ chưa trống rỗng thì họ sẽ làm nhiều điều không tốt. Dù cho tâm quý vị vẫn nghĩ về làm việc thiện và nói: “Tôi muốn giúp đỡ anh ấy vì anh ấy đã bị người khác kiện hoặc vì anh ấy đã bị ức hiếp.” Nếu trong lòng quý vị muốn giúp đỡ anh ấy, thì chắc chắn quý vị sẽ có hành động, vậy thì quý vị có khả năng đi sai hướng rồi. Bởi vì người bị kiện này cũng không phải là người tốt, người này đã ức hiếp, xúc phạm người khác trong một thời gian dài, cuối cùng mới bị người ta kiện. Nếu quý vị giúp đỡ anh ta, trên thực tế quý vị đã bước vào nhân quả của anh ta, vì vậy tâm thức của quý vị sẽ bị lạc lối.

Làm sao trống rỗng đây? Về sau Phật giáo dạy chúng ta không nghĩ đến thiện hay ác, bởi vì thiện ác ở thế gian này chúng ta không thể đánh giá được, đó là một loại nhân quả. Làm sao để có thể hiểu được những đạo lý này đây? Phải sản sinh ra vô lượng trí tuệ. Bồ Tát dạy chúng ta rằng phải giải thoát mới có thể bước vào “Bất Nhị Pháp Môn”. Nếu hôm nay quý vị đã nhập vào “Tam Giải Thoát Môn” thì sẽ nhập vào “Bất Nhị Pháp Môn”. Không, Vô tướng và Vô tác có thể chứng nhập bởi bất kỳ pháp môn nào, chỉ cần nhất môn thâm nhập, thì trí tuệ của quý vị sẽ tăng trưởng và khai ngộ minh tánh. Tại sao lại nói như vậy? Không, Vô tướng và Vô tác chính là “Tam Giải Thoát Môn”: nếu quý vị có thể trống rỗng thì sẽ có Vô tướng và Vô tác; nếu hôm nay quý vị có thể Vô tướng thì nhất định sẽ trống rỗng và sẽ không làm gì cả - tức là sẽ không có hành vi. "Nếu hôm nay quý vị không có hành vi gì, chắc chắn quý vị đã suy nghĩ thông suốt và trống rỗng rồi, đó nhất định là Vô tướng, vậy thì việc bố thí Vô tướng sẽ được bắt đầu.

Đôi khi con người khó hiểu Phật pháp, trong đạo Phật có câu “vọng tưởng chính là Bát nhã”. Nhiều người hoàn toàn không thể hiểu được "vọng tưởng chính là Bát nhã" nghĩa là gì. Chẳng lẽ vọng tưởng có thể trở thành Bát nhã sao? Thực ra, nếu biết rằng vọng tưởng là trống Không thì vọng tưởng là Bát nhã. Bởi vì sau khi có vọng tưởng, quý vị biết rằng đây là vọng tưởng, nếu quý vị đã đạt được tánh Không, thì sẽ sở hữu được Bát nhã. Nếu quý vị chấp vào sự sở hữu Bát nhã và quý vị cảm thấy “Tôi có trí tuệ, tôi có trí tuệ của Đức Phật”, vậy quý vị đang cố chấp vào “Bát nhã thị hữu”, vậy thì Bát nhã chính là vọng tưởng. Hy vọng mọi người sẽ hiểu được những lý luận thâm sâu này của Phật giáo. Sư phụ sẽ giải thích đơn giản một chút. “Biết rằng vọng tưởng là trống rỗng”: Quý vị biết việc này không tốt, không thể làm được,vậy “ trống rỗng” nghĩa là quý vị đã hiểu được việc đó, đã biết rằng việc này không tốt, khi quý vị cho rằng việc này không tốt, sẽ không đi làm thì quý vị có phải đã có trí tuệ Bát Nhã không? Có rồi. Vậy thì “Chấp Bát Nhã thị hữu” có nghĩa là “ Con người tôi có thể hiểu được việc gì nên làm, việc gì không nên làm”. Vậy thì làm sao quý vị biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm? Nếu quý vị cố chấp vào Bát nhã thì Bát nhã chính là vọng tưởng. Cái trí tuệ này của quý vị cũng do vọng tưởng mà ra, không phải là sự giải thoát thực sự. Vì vậy, sự cao siêu của đạo Phật nằm ở việc nâng cao cảnh giới, hơn nữa cảnh giới này sẽ không ngừng thăng tiến và đạt đến vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.