Tập 36. TRUNG QUÁN TRUNG ĐẠO. TAM GIẢI THOÁT MÔN 08/04/2020


Bồ Tát dạy chúng ta học cách “Tam bất khả đắc”, chính là để chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên đời đều là giả dối. Để chúng ta loại bỏ ý thức trong nội tâm mình, chính là phải dựa vào “Tam Giải Thoát Môn”. Bồ Tát nói với chúng ta, khi một người sắp rời khỏi thế gian thì sẽ biết được thế giới này là trống rỗng, đúng không? Mọi thứ chúng ta đã làm không phải là trống rỗng rồi sao? Quý vị hãy nghĩ mà xem, trường mẫu giáo lúc nhỏ, giáo viên tiểu học, bạn học tiểu học và bạn học cấp hai, quý vị nay đã không còn gặp lại họ nữa rồi, mọi thứ đã kết thúc rồi, có phải là trống rỗng không? Chính là như vậy. Sau khi đã rỗng không, có phải đã không còn ký ức nữa, vô tướng rồi, không còn suy nghĩ về điều đó nữa rồi đúng không? Cái mà quý vị không thể nhớ được có phải là “vô sở tác” không? Có phải giống như chưa từng làm không? Khi quý vị nghĩ như vậy, suy nghĩ của quý vị sẽ trong sáng, sẽ không có ý thức nữa rồi. Bồ Tát sợ nhất là chúng ta có ý thức, bởi vì có ý thức trong não sẽ còn sót lại trong điền thức thứ 8, A-lại-da thức (thức Aliya) sẽ lưu giữ nhiều điều đau đớn buồn phiền trong quá khứ cũng như rất nhiều việc không đúng lý, không đúng pháp mà chúng ta đã từng làm, và nó sẽ được lưu trữ mãi mãi trong ý thức, khiến quý vị luân hồi vô tận trong lục đạo.

Tam Giải Thoát Môn là Không - Vô Tướng - Vô Tác. Kinh điển của Bồ Tát rất triết lý, bảo chúng ta phải giải thoát, và cửa giải thoát ở đâu? Khiến cho quý vị phải nghĩ đến Không - Vô Tướng - Vô Tác. Trong kinh Phật, Vô Tác từng được dịch là Vô Nguyện. Nhiều người nghĩ rằng, chẳng phải những người tu hành theo đạo Phật như chúng ta phải phát nguyện thường xuyên sao? Chẳng phải có rất nhiều chư vị Bồ Tát lớn, Phật lớn đều có nguyện lực sao? Vô Nguyện, điều này thật kỳ lạ, chẳng phải người học Phật đều phải phát nguyện sao? Vô Nguyện thực ra chính là Vô Tác. Tại sao lại vậy? Lời nguyện đã hứa qua cũng chỉ là một lời nguyện, nếu không thực hành nó — thì là Vô Tác; Khi nguyện lực này đã được thực hiện, quý vị đã làm rồi, thì cảnh giới cao nhất chính là hôm nay quý vị đã thực hiện lời nguyện đó cũng giống như quý vị chưa từng làm, cho nên làm mà như không làm, làm rồi cũng giống như chưa làm vậy, đây chính là cảnh giới cao nhất của đạo Phật.

Chúng ta nên nắm bắt ba cánh cửa giải thoát này và coi mọi thứ là Không - Vô Tướng - Vô Tác. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản cho quý vị nghe thử. Hôm nay quý vị sắp tổ chức một buổi lễ lớn ở cơ quan làm việc, quý vị bận rộn cả ngày và cuối cùng buổi lễ cũng kết thúc, lúc đó quý vị trên sân khấu cảm thấy rất

vinh dự, nhưng cuối cùng thì chuyện này cũng kết thúc và rỗng không. Một ví dụ khác, nhóm truyền thông chúng ta từng tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Đài truyền thông tại Nhà hát Opera Sydney rất đông đúc và bận rộn, rất tuyệt vời. Kết quả là, sau khi hoàn thành công việc, trên đường lái xe về, một trong những người dẫn chương trình của chúng ta đã nói: “Bận rộn bấy lâu nay, vậy mà đã kết thúc như vậy rồi”. Đây là trống rỗng, đã kết thúc, bận rộn xong, và cuối cùng thì cũng trống rỗng; sau khi trống rỗng quý vị không còn nhớ đến nữa. Bây giờ khi nghĩ lại hoạt động này cách đây vài năm, quý vị không có cảm giác và không có ấn tượng gì trong đầu, hiếm khi hoài niệm hay nhớ về nó và nó đã Vô Tướng rồi. Nếu quý vị không có ấn tượng này trong đầu thì đó có phải là “Vô Tác” không? Chỉ thỉnh thoảng mới xem qua một số buổi biểu diễn trên trang web của chúng tôi mới nghĩ về nó mà thôi. Bồ Tát cho chúng ta hiểu rõ ba cánh cửa giải thoát này — thế nào là Không, thế nào là Vô Tướng, thế nào là Vô Tác, rồi quý vị sẽ dần nắm bắt được ba cửa giải thoát này, và quý vị sẽ hiểu được hết thảy đạo lý của Phật Pháp.

Nhiều người không hiểu tại sao, dường như học Phật Pháp rồi giống như chưa học. Đã học chưa? Vẫn chưa học được sao? Đã học rồi. Quý vị đã từng học tiểu học chưa? Đã từng học qua rồi. Quý vị đã học được rất nhiều chữ, bây giờ vẫn đang sử dụng chúng phải không? Đang sử dụng. Tại sao vẫn đang sử dụng chúng? Bởi vì đã từng học nó và đã học thuộc lòng rồi. Bây giờ nghĩ lại giống như quý vị chưa từng học nó vậy, bởi vì quý vị sớm đã quên hết những gì đã học ở trường tiểu học rồi. Nhưng thật sự đã quên rồi sao? Chưa quên, vẫn đang ghi nhớ trong lòng và áp dụng nó vào thực tế. Đây chính là sự uyên thâm của Bồ Tát, đó là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác. Nó có thực sự trống rỗng không? Nó không trống rỗng. Nó có phải là Vô tướng không? Cũng không Vô Tướng. Nó có phải là Vô tác không? Cũng hoàn toàn chẳng phải là Vô Tác. Cho nên Tam Giải Thoát Môn giúp chúng ta học được cách buông xả, phải học cách buông bỏ tất cả mọi thứ trên đời…bất luận đó là Pháp môn hay những kiến thức mà chúng ta đã học được, chúng đều là trống rỗng. Cái sự vật được gọi là Trống rỗng này sau khi đã sử dụng rồi, đã từng học qua rồi, đã chuyển biến rồi, thì cái hình tướng này cũng không còn nữa. Nếu quý vị không chấp tướng thì trong lòng không còn hình tướng này nữa, không dính mắc vào hình tướng này thì quý vị cũng sẽ quên mất nó mà thôi. Cũng giống như khi quý vị còn trẻ, đã từng trải qua rất nhiều chuyện buồn hoặc chuyện tình yêu, nếu bây giờ không nhắc đến thì chắc chắn không còn hình tướng này nữa rồi. Bao gồm cả việc tụng kinh cũng vậy, bất luận là trước đây quý vị đã từng học qua bao nhiêu kinh điển, Pháp môn, kinh Phật hay tất cả các Pháp, cuối cùng quý vị còn lại gì? Tại sao

trong《Tâm Kinh》lại nói rằng “chư Pháp không tướng”? Nghĩa là mọi thứ đều là Không Tướng. Cho nên《Kinh Kim Cang》có nói: “Nhất thiết hữu vi Pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”: chính là giống như điện, thoáng cái đã biến mất rồi; giống như hạt sương mai, khi mặt trời ló dạng thì sương tan không còn nữa; giống như là ảo mộng là giấc mơ.

Nhưng giấc mơ lại vô cùng chân thực, có những đứa trẻ sau khi thức dậy vẫn còn khóc, vẫn đang suy nghĩ về những điều trong giấc mơ đó, liệu quý vị có bị dính mắc vào những cảnh vật trong giấc mơ này không? Đã qua rồi thì cứ để cho nó trôi qua, vì vậy mới có câu “Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”. Vậy thì quý vị nên nhìn nhận sự việc một cách thực tế, đó gọi là “Ưng tác như thị quán”. Sau khi chúng ta học Phật, cái khó là làm sao có thể khiến bản thân đem những điều học được biến thành Không Tánh và làm thế nào để có thể lý giải nó. Cái Không Tánh này không thực sự là sự trống rỗng, cũng không phải là “Ngoan Không”, mà Không Tánh ở đây quý vị không thể nhìn thấy được nhưng thực sự lại có thể giúp ích được cho quý vị— đó chính là bản tánh của Không.

Trung Quán Chánh Kiến rất quan trọng. Nhìn thấy điều gì cũng nên Trung Quán, có thể thấy người này có một số khuyết điểm, nhưng nhìn chung họ có phẩm chất tốt và đạo đức không tệ, đây gọi là “Trung Quán Chánh Kiến”. Người này có chút tật xấu, khi tật xấu nổi lên thì rất đáng ghét, nhưng bản chất của cậu ta vẫn rất tốt, hơn nữa cậu ta học Phật thì nên giữ lại Huệ mệnh cho cậu ta - Trung Quán Chánh Kiến. Cho nên kiến đạo, căn bổn trí là gì? Trí huệ căn bản nhất của Phật giáo là Trung Quán. Ở thế gian này, nếu chúng ta dùng Trung Quán để quán chiếu tất cả vạn vật, thì tâm của chúng ta sẽ có thái độ vô cùng tốt. Tại sao vậy? Tâm thái bình thường. Đối với một người trông rất đáng ghét, chúng ta vẫn có thể nói “người này thật đáng thương”, vậy thì lòng đại từ đại bi đã xuất hiện rồi đấy; Người này làm rất tốt nhưng chúng ta suy nghĩ đến người đó vẫn còn khuyết điểm, hy vọng họ có thể thay đổi tốt hơn, như vậy có phải là xuất hiện nghị lực tinh tấn rồi không? Bất cứ điều gì cũng đều coi nó là Trung Quán, không trống rỗng cũng không tồn tại. Không trống rỗng — mặc dù trong lòng quý vị nói “người này rất tốt”, nhưng quý vị không để họ ở trong lòng và cũng không nói rằng người ấy hoàn toàn tốt. Chúng ta nói “không trống rỗng cũng không tồn tại”, nhưng không có nghĩa là không có gì. Hôm nay khi tôi nhìn nhận sự việc này, tôi lúc nào cũng Trung Quán Trung Đạo, và tôi hoàn toàn xem sự việc đó là cái gì đó có tồn tại, nhưng cũng không tồn tại. Vì thế nó có vẻ trống rỗng, nhưng dường như cũng tồn tại, đây chính là tức không tức có.

Điều kiện trước tiên để đạt được Trung Quán Chánh Kiến là gì? Một người muốn thực sự đắc đạo... người học Phật thường nói “Tôi muốn đắc đạo”, vậy thế nào là đắc đạo? Khi nhìn người khác đừng đánh giá sai về họ, Trung Quán Chánh Kiến, thì quý vị liền đắc đạo rồi. Nếu mọi người đều nói người này không tốt, còn quý vị lại nói: “người này cũng có ưu điểm của họ, tuy rằng họ vẫn còn khuyết điểm” thì quý vị có phải là người đã đắc đạo rồi không? Dù làm việc gì đi nữa, chúng ta cũng phải nhìn thấy Tánh Không và tách rời khỏi hình tướng. Ví dụ, bây giờ quý vị đang gặp phải một sự việc rất phiền não, gia đình ngày nào cũng cãi vã và đang đối mặt với sự đổ vỡ, thì quý vị nên “Nhìn thấy Tánh Không trước tiên” – “Trên thế gian này là vậy, vợ chồng trước sau gì cũng sẽ có cãi nhau, đây là điều thường xảy ra trong mỗi gia đình”, quý vị nên nhìn thấy Tánh Không của sự việc đó trước: “Vì vậy chúng ta đừng quá đặt nặng vấn đề”. Một việc nhỏ nhặt, một lời nói, một cái nhìn hay một hành động nào đó, quý vị đừng quá xem là thật thì quý vị đã nhìn thấy được Tánh Không của nó rồi, và Tánh Không của hôn nhân cũng xuất hiện rồi đúng không? Sau khi nhìn thấy được một khía cạnh của sự trống rỗng, quý vị liền trở thành người ngoài cuộc, không còn là người cố chấp trong những cuộc cãi vã trong hôn nhân nữa, liền cảm thấy “hôn nhân là thế đó, vợ chồng nào cũng sẽ có cãi vã, vợ chồng nào cũng sẽ đối mặt với chuyện này”, có phải quý vị đã thoát khỏi vai diễn của mình trong sự việc này rồi không? Sau khi quý vị đã rời khỏi và trở thành người ngoài cuộc, thì quý vị có thể nhìn thấy chân tánh và bản tánh của sự việc này, và bản tánh của nó là trống rỗng.

Cũng giống như hai đứa trẻ cãi nhau, bố mẹ ở bên cạnh luôn nói “đừng cãi nhau, đừng cãi nhau nữa”, họ biết rất rõ rằng khi hai đứa trẻ cãi nhau là do có nhiều chuyện không thể giải quyết được như đố kị, khó chịu và những chuyện không vui từ bên ngoài v.v... đều có đủ cả. Vậy thì Không Tánh là gì? Không Tánh nghĩa là biết rằng sẽ luôn có những cuộc cãi vã. Bố mẹ nói “Bố mẹ biết, nên bố mẹ không tham gia vào cuộc cãi vã”, người bố cũng không giúp con trai, người mẹ cũng không giúp con gái ... Bằng cách này, liền nhìn thấy được “Tánh Không” rồi, đã trống rỗng rồi, từ trong sự trổng rỗng đó thoát ly rồi. Khi quý vị hiểu được Tánh Không, quý vị không còn ở trong sự việc đó nữa, thì quý vị sẽ hiểu rõ những suy nghĩ của bản thân về mọi mặt và cảm nhận được bổn tánh của quý vị chính là sự trống rỗng. Bởi vì, sau một thời gian chuyện đó dường như chưa từng xảy ra, hai đứa trẻ sẽ vui vẻ trở lại, cùng nhau ăn uống, chơi đùa, cùng nhau vui vẻ, Không Tánh - như chưa từng xảy ra chuyện gì.

Theo giới Phật Pháp mà nói, tự tánh vốn dĩ là trống rỗng, và bản chất của mỗi người vốn dĩ là trống rỗng. Trên thế gian này: “Bổn lai vô nhất vật. hà xứ nhạ trần ai”, tâm con người giống như một tấm gương, nếu quý vị không soi vào những thứ dơ bẩn đó thì làm sao có những thứ dơ bẩn đó phản chiếu lại vào trong tâm quý vị? Bước đầu tiên khi học Phật chính là để cho bản thân mình hiểu được mọi thứ trên thế gian này và đừng xem nó quá chân thật, thay vào đó, hãy nhìn thấy Không - Vô Tướng - Vô Tác. Bằng cách này, quý vị đang bước từng bước đầu tiên trên con đường học Phật. Quý vị không chỉ hiểu về mặt lý thuyết mà còn phải rời xa cái tâm của mình, tức là hiểu được bổn tánh vốn là sự trống rỗng, “Tôi không ở trong đó và dần dần sẽ hiểu được hàm ý thực sự của nó”. Cho nên khi một người tham gia vào cuộc cãi vã, họ sẽ không biết ai sai ai đúng; khi quý vị đang ở trong một cuộc tranh cãi, quý vị chắc chắn cảm thấy mình đúng, vậy thì quý vị đã bị cuốn vào trong đó rồi. Tánh Không là để cho chúng ta hiểu được làm sao có thể hiểu Phật giáo thông qua học Phật. Nhiều người nói rằng “Tôi hiểu rồi, tôi đã học Phật rồi, tôi học rất tốt, tôi có thể áp dụng nó trong cuộc sống và tôi có thể kiềm chế được tính khí của mình”, nhưng tại sao đến cuối cùng lại không thể kiềm chế được? Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được khi tính khí nổi lên? Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được phiền não khi nó đến? Học Phật là để giải thoát khỏi sinh tử, học Phật đã lâu rồi, đừng nói đến giải thoát sinh tử, hôm nay đau lưng cũng không giải quyết được chứ nói gì đến sinh tử? Hôm nay phiền não ập đến cũng hóa giải không xong, thì làm sao giải thoát sinh tử đây?

Ngộ đạo là gì? Chứng đạo là gì? Có nghĩa là toàn bộ thân tâm của quý vị đã hoàn toàn hòa nhập vào ngộ tánh và đã bước vào Phật đạo. Cũng giống như một tách trà, phải dùng nước đun sôi pha thì trà mới có vị. Khi quý vị chỉ nói những lời sáo rỗng, dù quý vị có nói nó thơm hay đậm đà đến đâu thì nước sôi vẫn là nước sôi, cho nên dù quý vị nói Phật Pháp có tốt đến mấy nhưng nếu không thực hành, thì nước mà quý vị uống vẫn chỉ là nước đã đun sôi mà thôi, dù quý vị có nói về nó tốt hay nó thơm và đậm đà đến đâu, suy cho cùng thì vẫn chưa thực hành. Vì vậy phải Chánh đạo, nghĩa là quý vị phải chứng thực sự tồn tại của Phật giáo và phải nghiệm chứng điều đó dựa trên sự tồn tại của Phật Pháp, từ đó có thể mang lại lợi ích cho quý vị, chỉ bằng cách này mới có thể thực sự khai ngộ.

Vì thế, Tánh Không cần phải dựa vào sự kiểm chứng, người hiểu được Tánh Không có thể dùng cảm nhận của bản thân để kiểm chứng, chứng đắc Tánh Không rồi vẫn chưa hoàn toàn được xem là thành công trong việc học Phật. Quý

vị đã chứng ngộ và nói: “Tôi hiểu rồi, Phật Pháp thực sự là trống rỗng. Quý vị thấy đấy, trong khi gia đình chúng ta thật không dễ dàng gì dành dụm được một ít tiền, khi bị bệnh liền tiêu hết rồi, có phái lả trống rỗng rồi không? Lại phải kiếm tiền lại từ đầu rồi, lúc này tôi đã cảm nhận được sự trống rỗng này rồi”, nhưng đây vẫn chưa được tính là trống rỗng. Bởi vì mỗi một sự lý giải chỉ là bước khởi đầu hướng tới tánh Không mà thôi. Không tánh rồi, chúng ta vẫn cần phải biết tại sao gọi đó là Không và duyên khởi là gì. Tánh Không là gì? Duyên khởi là gì? Quý vị phải lý giải được tại sao tất cả mọi thứ trên thế gian này đều trống rỗng, vậy thì quý vị mới thực sự trống rỗng, quý vị hiểu rõ được thế giới này thực sự trống rỗng nên quý vị buông xả. Giống như một vị pháp sư, họ biết gia đình đó cuối cùng sẽ không còn nữa, mọi thứ của con người cũng sẽ mất đi, “Tôi muốn tìm một con đường Phật Pháp có thể chứng ngộ” – đó là chứng đạo. Nghĩa là họ đã hiểu rõ rồi, trong lòng họ có diệu pháp và không tiếc từ bỏ tất cả danh lợi, địa vị và tất cả mọi thứ ở nhân gian, và họ liền diệu dụng Phật Pháp để khiến bản thân được ở trong một môi trường yên tĩnh, không tham, sân, si, mạn, nghi. Như vậy, sự tinh tấn trong đạo Phật của vị pháp sư lại tiến thêm một bước.

Nói đến đây, rất nhiều người nói đây được coi là thành công không? Đây vẫn chưa được tính là thành công, phải “không phi không, hữu phi hữu, tức không tức hữu”. Có nghĩa là quý vị phải “không” (trống rỗng) nhưng không hoàn toàn trống rỗng. Trong lòng quý vị muốn trống rỗng không? Hy vọng trống rỗng nhưng lại không hoàn toàn trống rỗng. “Hữu phi hữu”, trong lòng quý vị nghĩ: “Tôi có Phật Pháp, nhưng tôi lại không có gì”, thực ra Phật Pháp đã đi vào A-lại-da thức của quý vị rồi, đã đi vào trong cuộc sống của quý vị rồi, và cuộc sống của quý vị nằm trong Lục Ba-la-mật rồi. Cho nên “tức không tức hữu”, giống như không có lại như là có, dường như có lại như không, thực ra quý vị đã vận dụng Tánh Không vào thực tiễn rồi. Sự huyền bí của đạo Phật chính là khiến cho chúng ta nghĩ thông suốt, nghĩ và nhìn thấu suốt. Phi Không phi Có, dường như là trống rỗng và dường như không tồn tại. Cũng giống như ngày nay quý vị sống trên thế gian này, ai cũng có một gia đình, nhưng gia đình này dường như có và dường như lại không có. Cũng giống như pháp sư, họ từng có nhà nhưng họ đã xuất gia, vậy thì trước đây họ đã từng có nhà không? Giống như có mà lại như không, không phải Không cũng không phải Có. Chỉ có như vậy quý vị mới có thể thực sự hiểu được duyên khởi của Tánh Không Bát nhã, tức là thực sự hiểu được rằng duyên phận này vốn dĩ là rỗng không trong thế giới này: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ, bây giờ tôi đã nghĩ thông suốt rồi, vì bổn tánh của tôi hiểu Phật Pháp, con người cuối cùng không còn lại gì cả, mọi thứ đều vô

thường, là Không tánh”, vậy là quý vị hiểu được cái duyên của đạo lý này, đó là “Duyên Khởi Tánh Không”.

Những gì nói với quý vị hôm nay quả thực có phần sâu sắc, nhưng Sư phụ cố gắng giải thích cho quý vị bằng những câu chữ dễ hiểu nhất. Phật Pháp dù uyên thâm đến mấy thì cũng không thể tách rời khỏi sự hiểu biết và ngộ tánh trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Tánh không rốt cuộc có phải là điểm đến cuối cùng mà chúng ta hướng đến? Tánh không, rốt cuộc là trống rỗng hay không trống rỗng? Là trống rỗng đến mức độ nào? Là trống rỗng đến tận cùng chưa? Tánh không nhất định là điểm đến cuối cùng, cũng có thể nói rằng, dù sự trống rỗng này có tồn tại trong đời sống thực tế hay trong những giáo lý Phật giáo được hiểu khi nghiên cứu về đạo Phật, thì nó là điểm cuối, là đích đến cuối cùng. Bởi vì trên thế giới này mọi thứ đều là trống rỗng, Đức Phật và Phật Pháp từ lâu đã dạy chúng ta rằng: “Thành, Trụ, Hoại, Không”.