Tập 99
BÀN VỀ KIẾN PHẦN VÀ TƯỚNG PHẦN
4/7/2020


Được rồi, hôm nay Thầy sẽ tiếp tục giảng cho mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.

Sư phụ nhớ lần trước Thầy có khai thị cho quý sư về tâm lý học của Phật giáo. Trên thực tế, quan điểm triết học và tâm lý học của Phật giáo đã được hình thành cách đây 2.500 năm. Từ xa xưa, vì chúng sinh có sự huân tập cũng như đã trải qua một sự thẩm thấu, một quá trình xông ướp bởi nghiệp vô minh và hạt giống này do tác dụng của tự tâm gieo sâu trong thức, nên dần dần tạo ra rất nhiều nghiệp vô minh. Thế nên liền phát sinh thuyết Nhất nguyên là “Năng” duyên và thuyết Nhị nguyên là “Sở” duyên, trong đó mê hoặc đối lập với thuyết Nhị Nguyên này. “Năng” có nghĩa là tôi có khả năng cảm nhận và tôi có khả năng làm, nó là chủ thể có tác dụng nhận thức; “Sở” có nghĩa là trạng thái và hoàn cảnh mà tôi cảm nhận hôm nay, nó là khách thể (đối tượng) bị nhận thức. Thật ra, nhiều người học Phật vì muốn loại bỏ đi mê hoặc đối lập với thuyết Nhị nguyên này, nên họ dùng cảm giác “Năng” kiến trong tâm mình (hôm nay tôi có khả năng cảm nhận được một điều gì đó, họ dùng tâm “tôi có khả năng” của chính họ để làm điều này) và hoàn cảnh “Sở” kiến tôi cảm nhận (tức là tôi có thể cảm nhận được những thay đổi trong hoàn cảnh này và tôi có thể cảm nhận được những thay đổi trong tâm mình). Giữa hai sự đối lập này biến sinh ra con đường Thiền tu đều trống rỗng, phải cả hai đều trống rỗng. Nói cách khác, tâm của quý vị phải rỗng Không ngay cả khi quý vị đang làm việc gì đó và quý vị cũng phải cảm thấy trống rỗng khi tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Sư phụ sẽ tiến hành phân tích sâu hơn với mọi người về vấn đề này.

Phật giáo Đại Thừa có hai tông phái tư tưởng: một là Duy thức, một là Trung quan. Duy thức chính là kiến giải của Duy thức tông, họ cho rằng vạn vật trên thế gian đều do ý thức điều khiển chính, điều này trên thực tế liền phù hợp với kiến giải đầu tiên của Phật giáo Đại Thừa. Phật Đà đã từng khai thị với chúng ta rằng "vạn pháp đều do duy thức mà thay đổi", bởi vì ý thức của quý vị đã thay đổi, nên tâm của quý vị mới có thể thay đổi. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị nghĩ "Tôi mua thứ này giá rất hời", tiếp theo đó tâm quý vị liền biến đổi, liền cảm thấy rất vui; Nếu hôm nay quý vị cảm thấy tốn rất nhiều tiền để mua một món đồ mà giá không hời, vậy thì tâm của quý vị liền sinh ra một loại biến hóa khác. Trên thực tế, sự theo đuổi ý thức chủ quan của con người là rất mãnh liệt, luôn cho rằng ý thức chi phối toàn bộ những thay đổi trong tâm thái của chính mình. Nếu con người chịu thiệt, ví dụ như bị tổn thất tiền, có người sẽ hối hận cả đời "Ai da, lúc tôi bao nhiêu tuổi đã từng mất hàng chục nghìn"; Vậy thì có người liền trả lời: "Ai da, chi tiền để loại bỏ thiên tai", ý thức của họ chuyển đổi thì cuộc sống và toàn bộ quan niệm về con người của họ cũng sẽ thay đổi. Vậy nên Phật Đà nói vạn pháp đều là do Duy thức mà thay đổi, hết thảy mọi thứ đều do tâm thái của quý vị phát sinh biến hóa.

“Tam giới đô duy tâm sở hiện" (Tam giới đều do tâm biểu hiện) cũng có nghĩa là, ngày nay bất kể chúng ta sống ở cõi nào trên thế giới này, thì tâm hiện tại, tâm tương lai và tâm quá khứ của quý vị, thực ra tất cả mọi thứ đều do tâm thức của quý vị đang chuyển biến. Đây chính là "Tam giới duy tâm sở hiện" mà Sư phụ lần trước nói với mọi người, nghĩa là việc nâng cao cảnh giới cũng phụ thuộc vào ý thức của quý vị để thay đổi. Hôm nay vạn pháp - bất luận là pháp gì, tất cả vạn vật ở nhân gian đều là sự thay đổi trong ý thức của quý vị, và nó làm thay đổi tâm thái của quý vị. Quý vị cảm thấy điều này làm cho quý vị hạnh phúc, trên thực tế thì điều này rất đau khổ, nhưng ở thực tại thì quý vị lại cảm thấy hạnh phúc. Hôm nay quý vị cho rằng sự việc này là một điều xui xẻo, theo cách nhìn nhận của mọi người thì họ rất hâm mộ quý vị về điều này, nhưng bản thân quý vị lại cảm thấy không vui, thực ra quý vị đang tiếp nhận cảm giác không vui này. Có người rất không thích làm lãnh đạo, cảm thấy rất phiền phức, họ cho rằng làm một người quần chúng bình thường thì sẽ không có phiền não gì, nhưng một khi họ được bầu chọn làm người gương mẫu hay lao động gương mẫu, ý thức của họ thay đổi liền cảm thấy rất phiền phức, nên mỗi ngày đi làm đều xụ mặt không vui, khác hẳn với trước đây thường hay cười. Tất cả mọi thứ đều do ý thức của quý vị tạo ra.

Hôm nay Thầy lại tiếp tục nhấn mạnh một số khai thị về thuyết Duy thức cùng quý vị, cũng là để nói cho mọi người biết, Tam giới không phải do một môi trường đặc biệt nào đó tạo ra, chúng không được hình thành bởi một loại Vô duyên thể, tức là không phải do một khối không duyên không phận vô điều kiện mà được hình thành như vậy, thực ra nó cũng là do nội tâm nội hàm của chúng sinh biến hiện, bởi vì đó là nghiệp lực trong bổn tánh của chúng sinh. Vì sao thường hay nói người này thiện có thiện nghiệp, ác có ác nghiệp? Nghiệp lực này không có nghĩa là hoàn toàn đều là ác hoặc hoàn toàn đều là thiện, mà do tâm của quý vị tạo ra hoàn cảnh bên ngoài. Lấy một ví dụ đơn giản, cái tâm này của quý vị là một tấm gương, hôm nay quý vị chiếu kiến điều thiện, thì trong tâm liền có thiện. Chiếu kiến điều ác, trong tâm liền có ác niệm.

Điều này nhằm nói với mọi người rằng, tâm sẽ thay đổi, tâm sẽ tạo ra nghiệp cho quý vị. Vậy nên cho dù Tam giới có hiển hóa ra sao trong tâm quý vị, thì cũng do chính quý vị tạo thành. Đây là điều mà Sư phụ thường nói với mọi người, đau khổ cũng là do quý vị tạo thành, hạnh phúc cũng là nghiệp của chính quý vị tạo thành. Nhiều người đau khổ trách móc người khác, chính mình làm sai lại đi trách người khác, còn khi hạnh phúc đến thì đều nói mình làm đúng. Thật ra đúng hay sai chỉ là những khái niệm trừu tượng. Bởi vì có một số sự việc đúng với hiện tại nhưng trong quá khứ lại là sai, do thời đại hiện nay đã khác nên sự việc này đúng với hiện tại. Có một số việc là sai ở hiện tại, nhưng đúng vào thời đại quá khứ. Nhiều điều là như vậy đấy, chỉ là do tâm thức của quý vị thay đổi mà thôi. Ví dụ, bây giờ Thầy nói với quý vị việc này có thể làm, và tâm thức quý vị nói: "Được rồi, tôi đang làm việc này". Một lát sau Thầy lại nói việc này không thể làm, lúc này bổn tánh của quý vị đã và đang thay đổi, thảy đều do tâm tạo ra, quý vị liền cảm thấy: "Đây là sai, tôi không thể làm". Rõ ràng trước đây có thể làm, hiện tại lại không thể làm, đây chính là ý thức của quý vị đã và đang thay đổi.

Vì vậy, những biểu hiện trong Tam giới đều là nghiệp do bản thể tạo ra, hay còn gọi là tự tướng - là chân tướng của chính mình; chúng ta biểu hiện nó theo cách thông thường ở bên ngoài của mình (tức là nếu hôm nay nội tâm quý vị có ý niệm, thì nó sẽ xuất hiện ở hoàn cảnh bên ngoài trong nội tâm của quý vị), nó được gọi là cộng tướng hay còn gọi là phổ quát. Phần trước Sư phụ đã nói với mọi người về sự đối lập của thuyết Nhị nguyên. Thuyết Nhị nguyên này là “Năng” và “Sở”. Lần trước Thầy đã nói với mọi người rằng những thay đổi trong hoàn cảnh là tồn tại một cách khách quan, còn những thay đổi trong tâm là tính năng động ​chủ quan. Môi trường tồn tại một cách khách quan gọi là Tướng phần (khách quan); nếu tâm của quý vị là tính năng động chủ quan thì quý vị đã hiểu nó, gọi là Kiến phần (chủ quan). Ví dụ: “Ồ, sao hôm nay trời lại mưa rồi?” Nhiều người tưởng rằng mưa thì không tốt; nhưng vì nơi này hạn hán và đã lâu không mưa. Đối với người khác họ sẽ nghĩ là “Trời mưa là điều tốt, được tưới nước cam lồ rồi”. Thế thì tâm là kẻ chủ quan. Nếu quý vị cho rằng hôm nay mưa là tốt thì nó là cam lồ, nhưng nếu tâm quý vị cho rằng hôm nay mưa là xấu, thì đó là Kiến phần (chủ quan), bởi vì chính quý vị có thể nhìn thấy được quan niệm, những gì thấy và làm của bản thân. Điều tuyệt vời của thuyết Duy thức là ở chỗ nó chia Tâm thức của con người thành nhiều loại: những gì quý vị nhìn thấy bằng mắt, những gì quý vị nghe bằng tai, những gì quý vị cảm nhận bằng mũi, lưỡi, cơ thể, ý thức của chính mình, cũng như ý thức Mạt-na (thức thứ bảy) và ý thức A-lại-da (thức thứ tám). Thực ra, những điều này sẽ trở thành một kiểu nhận biết cá thể, hoặc cũng có thể trở thành một kiểu nhận biết tổng thể, nó chính là Tướng phần và Kiến phần

Nhìn từ một góc độ thống nhất, dù là Kiến phần hay Tướng phần thì tất cả đều là một thân tâm biến hiện ra. Đôi khi là tâm bên ngoài đóng vai trò, đôi khi là tâm bên trong đóng vai trò. Tâm bên ngoài là điều kiện để thay đổi, còn tâm bên trong là cơ sở để thay đổi. Lấy một ví dụ đơn giản, hai người bạn thường cãi nhau về một số việc nào đó, vậy họ có muốn làm bạn với nhau tiếp tục nữa không? Hình tướng bề ngoài cho mọi người biết là họ “cãi nhau”; còn hình tướng bên trong thì: “Ai da, vấn đề là không có tính nguyên tắc, chỉ là một số quan điểm bất đồng mà thôi”, cuối cùng sẽ không có thay đổi cơ bản nào khởi lên trong tâm họ, điều đó có nghĩa là hai người bạn có thể tiếp tục là bạn của nhau. Dù tình trạng bên ngoài có gây nhau, cãi nhau đến mấy, nhưng bản thân vẫn cho rằng điều đó không quan trọng: “Chúng ta vẫn là bạn tốt của nhau”. Đây chính là Nội tướng tức là hình tướng bên trong của quý vị.

Vì thế, cái thấy và hình tướng thực ra là do tâm hành động, và tâm là một thể. Tâm bên ngoài quý vị nhìn thấy màu sắc, hình dạng, quan điểm hoặc kích thước của một vật nào đó, hoặc mắt quý vị thấy vật này thật khủng khiếp, và tai quý vị nghe người khác nói, "Ồ, thật xấu hổ, tất cả mọi người đang nói về tôi." Đó là phần thị giác, chỉ là một phần trong Kiến phần và Tướng phần của quý vị mà thôi. Điều thực sự làm thay đổi quý vị chính là phần chủ quan trong nội tâm của quý vị. Nếu quý vị cho rằng vấn đề này quan trọng thì nó quan trọng. Vì vậy, dù người khác có nói với quý vị những lời độc ác bao nhiêu đi nữa, hay họ có nói gì về vấn đề này, nếu tâm quý vị không coi trọng nó, thì chuyện này sẽ không được coi trọng. Cũng giống như trước đây nhiều người từng làm trong công xưởng đã đến gặp xưởng trưởng và nói: “Thưa xưởng trưởng, tình trạng dột nước trong xưởng rất nghiêm trọng”. Nếu xưởng trưởng không để ý đến vấn đề này thì sự việc này cũng không quan trọng. Nếu xưởng trưởng nói: “Ồ, sao để như vậy được?” Vậy thì chuyện này lập tức được xem trọng. Thực ra là một tâm, Kiến phần và Tướng phần đều thuộc về một thể. Vì vậy, cũng giống như nằm mơ, trong giấc mơ con người chúng ta sẽ theo bản năng cho rằng những thứ mình nhìn thấy là thật, và cho rằng những thứ này tồn tại độc lập với nhau. Theo tâm lý học, nếu hôm nay quý vị có một giấc mơ đẹp, đi đến một nơi nào đó và cảm thấy rất hạnh phúc thì quý vị cho rằng đây là điều tồn tại trong giấc mơ; thực ra khi quý vị tỉnh dậy, chuyện vui vẻ mà quý vị nhìn thấy trong mộng cùng cảnh giới nhìn thấy toàn bộ đều đã bị biến mất, không còn nữa. Vậy thì giấc mơ này và trước khi quý vị tỉnh giấc, nó là một tổng thể không thể tách rời. Hãy thử nghĩ xem, nếu giấc mơ không tiếp tục thì quý vị sẽ thức dậy rồi; nếu giấc mơ này có thể tiếp tục và khiến quý vị luôn vui vẻ thì quý vị sẽ rất hạnh phúc trong hoàn cảnh đó, và đó cũng là “Kiến phần” của chính quý vị. Bởi vì kiến ​​giải của quý vị đã làm cho quý vị vui và quý vị cho rằng đây là thật nên quý vị liền hạnh phúc.

Tướng chỉ là một vẻ bề ngoài, để cho quý vị hiểu, để cho quý vị biết. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị thấy người này nhìn chằm chằm vào mình và quý vị cảm nhận anh ta rất thích quý vị, chỉ cần quý vị có cái Tướng phần này, (tức là có đối tượng nhận biết này), dùng Kiến phần của chính mình để lý giải nó, "Tôi biết anh ta thích tôi", khi đó quý vị sẽ sinh ra một loại yêu thích, đây chính là biện chứng, là một khái niệm trong tâm lý học. Khi còn bé Thầy từng nghe qua một câu chuyện cười, nói một người đàn ông có rất nhiều vết rỗ trên mặt, không biết đã tìm bao nhiêu cô bạn gái rồi, nhưng đều bị người ta bỏ. Kết quả là vào một ngày nọ, có người giới thiệu cho cậu ấy một giáo viên mẫu giáo, sau khi hai người gặp nhau, cậu ta liền nói với cô: "Ngày mai chúng ta còn có thể gặp nhau nữa không?", cô giáo viên đáp: "Được rồi, tối mai được không? Đừng quá muộn, trước khi trời tối chứ? 5 giờ. Chúng ta vẫn gặp nhau ở chỗ cũ". Người đàn ông kia mừng như mở hội. Trên thực tế về tâm lý học mà nói, tâm ý của cậu ta đạt được thỏa mãn, cậu ta nhìn thấy cái tướng này, tức là tai nghe được cô giáo viên muốn hẹn với mình và mắt đã nhìn thấy "Cô ấy nhìn tôi hài lòng, nên tối mai mới đồng ý hẹn gặp lại", cái Tướng phần và Kiến phần này, chính là "Tôi nghĩ cô ấy vẫn còn chấp nhận tôi". Qua ngày hôm sau, trời còn chưa tối, cô giáo dẫn theo một đám học trò ở trường mẫu giáo tới, người đàn ông kia vừa nhìn cô liền thốt lên: "Cô dẫn theo nhiều học trò như vậy tới đây làm gì? Chúng ta yêu đương..." Cô giáo không thèm đếm xỉa tới cậu ta, liền hướng về phía các bạn nhỏ và nói: "Các em hãy ngẩng đầu lên nhìn chú này một chút." Sau khi bọn nhỏ nhìn xong, cô giáo nói: "Nếu bây giờ các em không chịu tiêm phòng, sau này lớn lên, sẽ giống như chú này có đầy vết rỗ trên mặt." Cái Tướng này của cậu ta là cái Tướng mà làm cho cậu ta hiểu lầm, là cái Tướng không có nhận biết; Phần tức là ý thức phân biệt nội tâm của cậu ta sinh ra ảo giác. Đây chính là tâm lý học, cậu ta là ý thức trực quan, không có khúc chiết - tức là ý thức khúc quan.

Vậy nên Sư phụ nói với mọi người, Phật Đà dạy chúng ta rằng ngoại tướng có thể làm ảnh hưởng đến nội tâm của chúng ta, tức là tâm quý vị đang chuyển động, thì những gì quý vị nhìn thấy cũng đang chuyển động trong tâm quý vị, và những gì quý vị không thấy cũng đang vận hành trong tâm quý vị. Phật Đà dạy cho chúng ta biết: “Tâm sinh tắc cảnh sinh”, chỉ cần tâm có sinh khởi, cảnh giới liền sinh khởi, hôm nay quý vị khởi sinh phiền não, liền có phiền não; “Tâm diệt tắc cảnh diệt”, hôm nay quý vị nghĩ chuyện này không còn nữa, thì nó sẽ biến mất. “Cảnh sinh tắc tâm sinh”, khi quý vị nhìn thấy hoàn cảnh này, tâm của quý vị sinh khởi ra một số ý tưởng, vậy thì tâm của quý vị liền khởi sinh ra; “Cảnh diệt tắc tâm diệt”. Lấy một ví dụ đơn giản, buổi tối ở một nơi nông thôn vắng vẻ, quý vị không nghe thấy tiếng động gì, đột nhiên từ một nơi rất xa có một chiếc xe ô tô chạy tới, đường nông thôn rất tối, và không có ánh đèn nào cả, quý vị nhìn từ xa thấy chiếc xe hơi này chỉ có một bóng đèn, bởi vì bóng đèn còn lại đã bị hỏng, quý vị chỉ nhìn thấy một ánh đèn từ rất xa cứ chập chờn, hơn nữa vì khi xe chạy ven đường có rất nhiều cây cối, nên ngọn đèn này lúc sáng lúc tắt, trong tâm quý vị có thể sẽ khởi sinh: "Ôi chao, có phải là đã nhìn thấy vong linh gì rồi không?" Thật ra đó chỉ là một chiếc xe ô tô có một bóng đèn, chạy ngang qua rất nhiều cây cối nên nó nhấp nháy - đây chính là tâm quý vị khởi sinh ra. Khi nó chạy đến trước mặt quý vị: “Ôi, là một chiếc xe chỉ có một bóng đèn", cảnh không còn nữa, tâm cũng diệt mất rồi. Cũng giống như mối hận thù của quý vị đối với một người ngày hôm nay vậy: quý vị hận họ, đợi đến khi họ bước tới và nói: "Chuyện này không phải tôi nói mà người khác nói đấy, bạn đừng hiểu lầm tôi", cái cảnh này của quý vị liền bị tiêu diệt.

Vì vậy Đức Phật nói tâm con người: “Tâm tức là cảnh, cảnh tức là tâm”. Hoàn cảnh chính là tâm của quý vị, và tâm của quý vị chính là hoàn cảnh. Nên khi chúng ta chú ý đến một điều gì đó trên thế gian này, có thể tâm chúng ta vẫn còn đó. Khi mắt chúng ta nhìn thấy, tâm liền rung động; khi tai chúng ta nghe thấy, tâm lại rung động. Đó là lý do tại sao nói “Nếu không nhìn thấy, thì sẽ không cảm nhận được”. Vậy nên không nhìn thấy thì tâm sẽ không bị vướng mắc, nếu không nghe người khác nói, quý vị liền có cảm giác trống rỗng, trong tâm liền có sự trống rỗng. Hơn nữa cảm giác trống rỗng trong một thời gian dài sẽ tạo ra một môi trường tích cực với năng lượng tích cực trong tâm quý vị, đó gọi là Không cảnh. Mặc dù Không cảnh không giống với Sắc cảnh ở phàm trần, Sắc cảnh tức là hôm nay tôi đã thấy rất nhiều bữa tiệc, rất nhiều người, rất nhiều cửa hàng và ánh đèn neon, nên tôi rất hạnh phúc, nhưng Không cảnh là một cảnh giới cao quý ở trong tâm. Bởi vì khi một người thường để tâm ở trạng thái trống rỗng sẽ không gặp phiền não, còn một người lăn lộn trong thế giới phàm trần phiền não sẽ không rời họ. Vậy nên, chúng ta cam nguyện tu tâm tu đến trạng thái Không cảnh, vì loại cảnh giới này mới là căn nguyên siêu thoát lục đạo trong tương lai của chúng ta.