Tập 97
TỰ TÁNH ĐƯƠNG KHÔNG , CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU
1/7/2020
Nhiều vị Cao Tăng Đại Đức thường mỉm cười với cuộc đời, họ biết rằng con người đến và đi đều phải tự làm tự chịu nhân quả mà bản thân đã tạo ra. Bởi vì tự mình tạo nghiệt, tự mình phải gánh chịu, nhưng tự mình lại nghĩ ra rất nhiều cách để khiến bản thân đau khổ, khi nghĩ đến là cảm thấy khó chịu, tất cả đều do chính mình gây ra Nhân, nên tự nhận lấy nhân quả và tự tồn tại, nhân quả là tự mình gánh và tự mình chịu đựng. Vì thế “tự do sinh diệt” dần dần xuất hiện trong Phật giáo. Khi quý vị đã nghĩ thông suốt, tâm trí quý vị liền được tự do; nếu quý vị nghĩ không thông, tâm quý vị liền bị phiền não. Lấy một ví dụ đơn giản, khi sức khỏe kém, quý vị nghĩ không thông, cho rằng: “Tại sao người khác không bị bệnh, mà tôi lại bị bệnh?” Và khi quý vị đã nghĩ thông thì: “Khi họ bị bệnh tôi đâu nhìn thấy, khi họ bị bệnh họ còn đau khổ hơn tôi, là do tôi không cảm nhận được mà thôi”. Lúc này, quý vị đã nghĩ thông liền cảm thấy thoải mái. Trước tiên, hãy chữa lành những căn bệnh về thể chất và tinh thần của quý vị; rồi dần dần khi những lo lắng của quý vị được loại trừ, bệnh tật sẽ rời bỏ quý vị mà đi. Nếu quý vị ôm nỗi phiền muộn trong lòng không thể buông bỏ và cố chấp nghĩ rằng: “Người khác không bệnh, chỉ mình tôi bệnh nhiều như thế này”. Thì quý vị càng nghĩ sẽ càng đau khổ và bệnh tật sẽ ngày càng đến gần quý vị hơn, quý vị sẽ không thể loại bỏ cái Nhân gây ra bệnh và tiêu trừ nó, nên quý vị mới sống trong cái Nhân gây ra bệnh này.
Đạo Phật dạy chúng ta, sau khi quý vị loại bỏ được ý nghĩ này liền được hạnh phúc; nhưng sau một hoặc hai giờ xoay chuyển, thì ý nghĩ này có thể bắt đầu tự sinh khởi; sau khi ý nghĩ tự nghĩ ra xuất hiện, quý vị lại dựa vào loại trí tuệ “tự do sinh diệt” trong tâm để tự mình tiêu diệt nó, gọi là tự sinh tự diệt. Sự sinh khởi của tâm cũng như “Như Lai giả” dường như đã đến rồi. Khi phiền não đến, chúng ta nên làm sao đây? “Vô sở tòng lai, vô sở tòng khứ, tự tánh bổn không”, nghĩa là nói với chúng ta rằng: Phật tánh “vô sở tòng lai” chúng ta không biết nó từ đâu đến; “vô sở tòng khứ” chúng ta vốn dĩ đã có Phật tánh rồi, không phải đi tìm mà có được, nó đã có sẵn trong bổn tánh của chúng ta. Nhiều người tu tâm đi tu học khắp nơi. Thực ra, nếu quý vị tu dưỡng lương tâm tốt thì sẽ có được bồn tánh của Phật. Hãy đối chiếu với Phật ngôn Phật ngữ mà Phật thuyết, có phải đã phản ánh chân thực lương tâm bên trong của chúng ta không?
Nếu chúng ta có Phật tánh, chúng ta sẽ có được nhân tính và trí tuệ, vậy thì chúng ta liền có được bổn tánh. Thực ra, bổn tánh trong tâm chúng ta chưa bao giờ bị mất đi và cũng chưa bao giờ sở hữu nó, bởi vì nó vốn dĩ đã tồn tại. Giống như một người khi sinh ra thì mũi, tai và mắt luôn ở vị trí đó. Ví dụ, quý vị chưa bao giờ nhìn thấy sự tồn tại của chiếc mũi. Nhưng khi quý vị dùng hai tay bịt mũi lại, thì lúc này sẽ cảm nhận được tầm quan trọng của chiếc mũi vì quý vị không thể thở được. Thực ra, chiếc mũi vốn dĩ đã tồn tại, không phải vì quý vị không chú trọng đến nó mà nó đã từng bị mất đi. Cũng không phải vì quý vị chú trọng đến nó mà chiếc mũi mới tồn tại trên khuôn mặt quý vị. Cũng giống như Phật tánh trong tâm của chúng ta vậy, nó chưa bao giờ bị mất hay được sở hữu, bởi vì trong tự tánh của nó là Tánh không, nên Phật giáo mới gọi những điều này là Tánh không duyên khởi.
Tâm Kinh dạy chúng ta rằng “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Thực ra trong Không sinh Không diệt, khi sinh ra cũng là từ Không mà biến thành Sắc và từ Sắc lại biến thành Không, cũng có nghĩa là tuy có trống rỗng, nhưng thực chất không trống rỗng. Vậy là ý nghĩa gì? Chẳng hạn, trong tâm quý vị biết rằng hôm nay quý vị sẽ nghe Sư Phụ thuyết giảng, quý vị nghĩ: “Bây giờ tôi không được có bất cứ tạp niệm nào trong đầu. Tôi phải trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng… " Vậy quý vị đã trống rỗng chưa? Nếu trống rỗng rồi, thì khi nghe Sư phụ thuyết giảng, đương nhiên là quý vị sẽ chăm chú lắng nghe theo lời Sư phụ giảng. Vậy trong tâm quý vị đã trống rỗng chưa? Nó trống rỗng rồi. Nhưng thực chất tâm của quý vị có một điều kiện đó là quý vị không phải “hoàn không” - nghĩa là không hoàn toàn trống rỗng, bởi vì trước khi bước vào, quý vị vẫn đang suy nghĩ: “Tôi phải chăm chú lắng nghe, tôi cần học thêm nữa, và sau khi nghe tôi phải ghi chép lại, tôi phải thực hành Phật pháp vào trong cuộc sống hàng ngày”, đây là những gì quý vị đã từng nghĩ, nó không hoàn toàn trống rỗng. Đây là sự trống rỗng trong tự tánh, tuy có trống rỗng, nhưng thực chất trong tâm vẫn chưa hoàn toàn trống rỗng. Mặc dù có dập tắt, nhưng thực chất không dập tắt. Hôm nay quý vị đến đây và nghĩ: "Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe Sư phụ giảng." Câu nói "Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe Sư phụ giảng” của quý vị, có phải đã phản ánh lên bản chất thực sự trong suy nghĩ của quý vị là vẫn còn nghĩ ngợi không? Có phải đã thực chất Vô diệt rồi không? Nếu quý vị thực sự trống rỗng, thì khi quý vị bước vào, ngay cả nghĩ cũng không nghĩ, không hề có bất cứ suy nghĩ gì cả, tức là đã Chân không - đã thực sự trống rỗng rồi; còn khi bước vào mà nghĩ “Tôi phải trống rỗng, tôi phải trống rỗng”… thì cũng giống như Thầy dạy mọi người tụng kinh vậy, nếu thật sự không thể trống rỗng được thì quý vị có thể niệm thầm trong tâm “Tôi phải trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng…” Sau khi niệm mười lần, trong đầu quý vị thực sự đã trống rỗng rồi. Nhưng sự trống rỗng này là ép buộc bản thân không được tưởng tượng một vật nào đó hay một ý nghĩ nào đó trong tâm, là để kiềm chế bản thân không để những tạp niệm xâm nhập vào trong tâm mình và duy trì tính trong sạch của nó. Đây chính là thực chất Vô diệt, mặc dù là trống rỗng nhưng vẫn có Sắc trong sự trống rỗng đó, cho nên Không tức thị Sắc.
Thực ra không có sự khác biệt giữa Không và Sắc. Sư phụ tiếp tục đưa ra ví dụ này. Hôm nay quý vị đến nghe thuyết giảng và nói: “Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe và giữ cho đầu óc trống rỗng”. Suy nghĩ này thực ra cũng là một loại trống rỗng, và nó chỉ kiểm soát ngôn ngữ và hành vi của quý vị. Vì vậy, khi quý vị thực sự trống rỗng ngồi xuống và không nghĩ về những điều này, nhưng thực ra là vì trong tâm trí quý vị đã từng có suy nghĩ: “Tôi nhất định phải trống rỗng để chăm chú lắng nghe bài giảng của Sư phụ”, nên nó vẫn còn có Sắc ở trong đó.
Như thuyết duy thức đã nói, ý thức của quý vị và mọi thứ quý vị tưởng tượng hôm nay đều do tâm quý vị tạo ra. Hôm nay tâm tôi nghĩ gì, thì tâm tôi liền phát hiện ra điều đó. Lấy một ví dụ đơn giản, nội tâm giống như một tấm gương, nếu quý vị tưởng tượng một vị Phật, Bồ Tát nào đó, thì trong tấm gương nội tâm này sẽ xuất hiện một vị Phật, Bồ Tát và quý vị sẽ rất hạnh phúc, trong tâm có Phật, nhìn thấy vị Phật này dường như là có, nhưng thực chất là do quý vị tưởng tượng ra. Đây chính là Không tức thị Sắc, và đây cũng chính là tâm có thể tạo ra vạn vật. Nếu quý vị tưởng tượng trong tâm trí: “Hôm nay tôi bị quỷ ám rồi”, thì một tấm gương sạch sẽ trong tâm quý vị sẽ phản chiếu hình dạng và diện mạo của một con quỷ, và rồi quý vị bắt đầu tưởng tượng ra loại tóc rối bù đó… liền sinh ra sợ hãi. Đây chính là tâm có thể tạo ra tất cả mọi thứ. Nhưng sau khi tạo ra vạn vật, tâm cũng có thể hủy diệt vạn vật.
Vậy nên, Bồ Tát dạy chúng ta, hà cớ gì mà phải tạo tác ra pháp Không và Sắc? Hết thảy để nó tự nhiên đến, tự nhiên đi, đừng ép buộc bản thân đi làm một việc gì đó. Bởi vì cái ý thức này ép buộc nó, nên trong đó cũng có Sắc. Cái thế giới có Sắc này khiến quý vị bám chấp vào nó, khiến quý vị không thể giải thoát và khiến cho quý vị tạo tác ra hết thảy mọi sự vật, mọi hiện tượng trong Không và Sắc. Không và Sắc là gì? Vốn dĩ bản chất con người là trống rỗng, nhưng nó cũng có Sắc. Nếu quý vị nghĩ “Hôm nay mình nhất định không được suy nghĩ lung tung”, tức là đã có Sắc. Nếu tánh Không đến cuối cùng mà thật sự trống rỗng, thì thậm chí, cái ý nghĩ “Tôi không muốn nghĩ" cũng không nghĩ đến, cũng như chưa từng suy nghĩ về nó. Quý vị nghĩ cái gì? Có gì mà phải suy nghĩ. Chẳng lẽ khi quý vị đi ngang qua trước cửa ngân hàng, rồi nghĩ: "Tôi không thể trộm cướp như kẻ xấu"? Nếu một người tốt đi ngang qua ngân hàng, họ chưa bao giờ nghĩ đến đi trộm cướp đồ, đây chính là vốn dĩ trống rỗng. Vì thế, theo Phật giáo, thực ra mọi Sắc tướng và tánh Không đều chứa đựng diệu pháp. Diệu pháp là làm thế nào để chuyển hóa ý thức. Thuyết duy thức là nói đến chuyển hóa ý thức để ý thức của quý vị có thể trở thành một loại cảnh giới của Phật giáo Đại thừa, chỉ những người có thể vượt qua chính mình, có thể nâng cao cảnh giới, có thể quên mình, có thể vô ngã và có thể loại bỏ ngã tướng, thì người đó mới có thể được tính là cảnh giới Đại thừa.
Hà vi không? (Thế nào là Không?) Chúng ta thường nói “trống rỗng rồi”, vậy trống rỗng là gì? Đó là những tư tưởng trong quá khứ của quý vị đã từng nghĩ đến, tư tưởng mà trước đây nghĩ đến bây giờ không nghĩ đến nó nữa, đã quên đi những chuyện đã từng nghĩ, nó đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn tại trong trường ý thức thứ tám của quý vị nữa, vậy thì nó là quá khứ rồi, đó chính là điều mà chúng ta nói “Hà vi không” (thế nào là Không?) - thì nó liền trống rỗng.
Lấy một ví dụ đơn giản, người mà quý vị đã từng yêu khiến quý vị đau lòng như vậy. Khi quý vị bảy, tám mươi tuổi, vì những điều này đã từng nghĩ tới, đã là quá khứ, đã quên rồi và nó không còn tồn tại trong tâm trí của quý vị nữa thì lúc này nó được xem là rỗng Không, vì quý vị đã quên chuyện đó rồi. Tương tự như vậy, dùng sự trống rỗng này, quý vị nghĩ về "Tôi có thể làm gì trong tương lai? Sau này già đi tôi phải làm thế nào?" Điều mà quý vị tưởng tượng ra như vậy có phải là trống rỗng không? Bởi vì “sau này” của quý vị chưa đến, bởi vì tương lai chưa đến, nên tương lai cũng là trống rỗng. Đây là lý do tại sao Kinh Kim Cang nói rằng tương lai không thể có được, quá khứ không thể có được. Tất nhiên, nếu quý vị tưởng tượng về một người hoặc vật nào đó trong tương lai thì nó cũng không tồn tại nữa, vì nó không có. Lấy một ví dụ đơn giản, nhiều người có trí tưởng tượng khi đi xe buýt, nhiều bạn trẻ sẽ tưởng tượng rằng “bên cạnh mình còn một chỗ trống, chốc nữa nếu có một bạn trẻ nào đó đến ngồi cạnh thì tốt biết bao và tốt nhất là người khác giới”. Đây là suy nghĩ của con người, suy nghĩ của họ đang đấu tranh với sự trống rỗng. Họ cảm thấy không có sự trống rỗng, hiện tại họ vẫn còn ở trong trạng thái không có sự trống rỗng. Họ đang bám chấp vào sự tồn tại của một số trí tưởng tượng và ý thức. Tất cả những việc chúng ta đang làm hiện tại thực ra đều không có hiện tại, bởi vì chỉ cần vừa nói đến “hiện tại” thì cũng giống như Sư phụ đang nói với quý vị bây giờ “bông hoa này đẹp lắm”. Cái ví dụ thực tế bông hoa này vẫn chưa trôi qua, nhưng câu nói này có phải đã trở thành quá khứ rồi không? Vì Sư phụ vừa nói điều đó trong ba giây trước. Tương tự quý vị biết rõ nhất khi sử dụng điện thoại, vừa gửi tin nhắn cho người bạn hai giây trước là bạn ấy đã trả lời ngay lập tức trong một giây. Vì thế mọi thứ đều trống rỗng.
Kinh Kim Cang nói rằng tương lai là trống rỗng, hiện tại cũng là trống rỗng và quá khứ lại càng trống rỗng hơn. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng không có quá khứ trong không gian vũ trụ. Chúng ta sống đến hôm nay, chúng ta không nên nghĩ về những chuyện quá khứ nữa, bởi quá khứ chỉ là một khoảnh khắc. Cũng giống như bây giờ, quý vị biết rằng nếu quý vị mơ về kiếp trước thì đó chỉ là một khoảnh khắc, và đó đã là sự trống rỗng rồi. Không có tương lai cũng không có hiện tại, bởi vì sự trống rỗng này không đại diện cho hiện tại của quý vị, hơn nữa hiện tại lại nhanh chóng trở thành quá khứ. Vì vậy, con người không thể nắm bắt được trạng thái của mình trong sự trống rỗng này. Tại sao con người lại mơ hồ? Đôi khi họ hạnh phúc như mơ, và đôi khi họ đau khổ như sống trong địa ngục, vì họ không thể nghĩ đến tương lai, quá khứ và hiện tại. Hãy để tư tưởng con người chúng ta dần dần trôi vào tánh Không. Tại sao nhiều người lại nói “Tẩu nhập không môn, ly khai Hồng Trần”? (Bước vào cửa Phật, rời bỏ phàm trần), bởi vì điều này là Không tướng. Nếu có suy nghĩ “Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với thế giới này và không muốn sống ở thế gian này nữa” v.v. thì đây chính là cơ sở khiến cho con người mê hoặc điên đảo. Đó là bởi vì họ không hiểu được cấu trúc của tương lai, hiện tại và quá khứ thực sự đang chảy trong tâm mình.