Tập 94
QUẢNG BỐ VÔ THƯỜNG TƯỞNG
(Truyền bá rộng rãi về tư tưởng vô thường)
27/6/2020
Người thực sự có trí tuệ phải hiểu được, mọi nỗi khổ đau day dứt gặp phải trên đời này đều là do sự biểu hiện nhất thời của nhân quả. Bởi vì sao? Đó cũng là khái niệm về thời gian, bởi vì quý vị đã không cẩn thận, bởi vì quý vị đã làm việc này, bởi vì quý vị đã làm việc này vào thời điểm này, nên mới hiện ra rõ quả báo này. Vì vậy sự hiển hiện của quý vị chỉ là một sát na, quý vị đạt được cũng là một sát na, quý vị mất đi cũng là một sát na, toàn bộ đều phải gánh chịu báo ứng.
Phải không lo, không hỷ, không sợ. Thế nào là không lo? Sống trên thế gian này biết nhân quả, sẽ không lo lắng, không trồng Nhân, sẽ không phải hứng chịu hậu Quả. Không hỷ, không có gì để vui, bởi vì hết thảy đều sẽ qua đi, cho nên vui cũng chỉ là tạm thời. "Tôi không có gì phải sợ, vì những gì tôi sợ thì nó cũng sẽ qua đi." Đây chính là hai chữ mà người học Phật chúng ta thường nói đến, đó gọi là tùy duyên.
Người học Phật phải buông bỏ chấp trước và đừng cầu xin điều gì. Có gì mà phải bám chấp? Vì một câu nói, vì một động tác, vì lo âu, mà bám chấp vào nó không buông xuống được. Chấp trước: "Chấp" là cầm nó lên, "trước" là không ngừng nhìn nó. Vậy nên chúng ta thường nói "tập trung vào một sự việc nào đó", nếu quý vị cứ ôm lấy phiền não hay nghiệp chướng không ngừng cầm lên và dán mắt nhìn chằm chằm vào nó, thì quý vị sẽ có điều mong cầu, tâm tùy duyên của quý vị sẽ hoàn toàn bị dục vọng phá hủy. Vì thế phải loại bỏ mọi tâm mong cầu, "Bất luận dục vọng gì tôi cũng không được có tham muốn nào cả", bởi vì tất cả dục vọng đều sẽ mang đến cho quý vị tâm không tùy duyên, "Tôi không cầu gì, tôi buông bỏ mọi cố chấp của mình". Chúng ta phải hiểu được có cầu chính là nguồn gốc của khổ đau phiền não, nếu không cầu thì khổ ở đâu ra? Tùy duyên chính là nguồn gốc của thoát ly lục đạo luân hồi. Vì vậy nếu quý vị có thể tùy duyên, tức là để cho bản thân hết thảy tự nhiên đến, tự nhiên đi, không có mong cầu gì. Đây là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Phật đã dạy. Đức Phật đã từng dạy với chúng ta về con đường giải thoát - người nào không có dục vọng thì tự nhiên được giải thoát, đó là phương châm của Sư phụ "Vô dục tâm tự nhiên như nước".
Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng khi thân tướng thanh tịnh và tâm thái thuần khiết thì nhân cách của người đó sẽ thăng hoa. Chúng ta dựa vào gì để phân biệt hai người khác nhau? Đó chính là dựa vào nhân cách-phẩm hạnh giữa họ để phân biệt. Làm sao phân biệt "Nhân Cách" của một ai đó cao hay thấp? Quý vị có biết "sách" trong thư viện sắp xếp ra sao không? Đó là theo từng ô, từng ô khác nhau theo các quy chuẩn khác nhau. Như vậy hôm nay Tâm quý vị đang đặt ở vị trí ô nào? Tâm quý vị thuộc về quy cách cao, quy cách trung bình, hay quy cách thấp, chính là dựa vào quy chuẩn đặt ra trong cái ô này? Nếu quý vị biết tu dưỡng tâm hồn, làm thanh sạch thân tâm khỏi những thú vui thấp kém tức là người có nhân phẩm trung bình. Nếu quý vị có thể mang những điều trong quá trình tu dưỡng và làm thanh sạch bản thân đi hướng dẫn mọi người và nhờ điều đó giúp đỡ người khác thoát khỏi khổ đau thì quý vị chính là người có nhân cách cao, đương nhiên phẩm hạnh của quý vị cũng cao. Quý vị cũng thấy có nhiều người lợi dụng và kiếm tiền từ người khác, nhất là kiếm tiền từ bạn bè, người thân. Những người này tất nhiên nhân cách sẽ rất thấp và phẩm hạnh cũng bị suy giảm nhiều. Làm thế nào để có thể nâng cao phẩm hạnh của chính mình? Đó là phải tiếp cận giáo lý của Phật Pháp! Tiếp cận những bậc hành giả ,những vị cư sĩ miên mật tu hạnh Phật, hạnh Bồ Tát hơn nữa những vị này phải luôn luôn thực hành quán chiếu bản thân theo như phẩm hạnh của Phật, Bồ Tát mà các vị ấy đang tu. Tất cả những điều này gọi là "Pháp Hành". Người thường xuyên thực hành Pháp này và luôn luôn quán sát sẽ hiểu được “Tứ hạnh quán” là gì? Quý vị có làm gì thì cũng cần quán chiếu mọi việc sâu sắc thì mới có thể làm cho tốt cũng như viên mãn được. Muốn chấm dứt sanh-tử khổ đau, quý vị phải nỗ lực tiến tu nhận diện và chuyển hóa hết vô minh phiền não, có thế thì mới mong thành tựu được Phật quả
Một lần, Đức Phật du hóa đến vương quốc Kiều Tát La, thủ đô của thành Xá Vệ, Đức Phật sống trong vườn xoài của một Bà-la-môn tên là Đề-bà-đạt-đa, Tôn giả Upamana là thị giả của Đức Phật và chăm sóc Đức Phật. Lúc bấy giờ, Đức Phật bị cảm nhẹ, dẫn đến đau lưng (trước kia Đức Phật cũng mắc bệnh này), nên Đức Phật tìm Tôn giả Upamana và nói với Tôn giả: “Này Upamana, tôi bị cảm lạnh và dẫn đến bị đau lưng. Xin ông hãy mặc áo khoác vào và cầm bát khất thực đến nhà Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa xin cho tôi chút nước nóng.”
"Dạ được, thưa Đức Thế Tôn."
Tôn giả Upamana đến nhà Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa, nhẹ nhàng gõ cửa rồi đứng ở cửa.
Lúc này, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đang cắt tóc trong phòng khách, ông nhìn thấy Tôn giả Upamana đang đứng ở cửa liền hỏi: “Này vị sư mặc áo cà sa đứng ở ngoài cửa kia, Ngài đang đứng im lặng ngoài cửa, là đang muốn xin gì phải không?”
Tôn giả Upamana trả lời: có “Bậc A-la-hán, Thiện Thệ sống ở vườn xoài bị phong hàn, đau lưng dữ dội. Ông có nước nóng hay thuốc men trị liệu gì có thể bố thí không?" Tôn giả hỏi vị Bà-la-môn.
Nghe Tôn giả Upamana nói, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đưa cho ông một bát đầy bánh ngọt, một chai dầu và một chai mật ong đá rồi nhờ người khác bưng nước nóng đi theo Tôn giả Upamana đến nơi ở của Thế Tôn. Tôn giả Upamana xức dầu lên thân Đức Phật, rồi rửa bằng nước nóng tiếp đó cho Đức Phật uống mật ong pha nước ấm. Với cách chữa trị này, chứng phong hàn và đau lưng của Đức Thế Tôn đã thuyên giảm.
Sáng sớm hôm sau, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đến viếng Đức Phật. Sau một phen ân cần thăm hỏi hàn huyên, Đức Phật liền hỏi: “Này các Bà-la-môn, các ông thực hành Pháp Bà-la-môn như thế nào? Ví dụ, bố thí cho người nào có thể đạt được đại quả báo? Bố thí vào thời điểm nào và bố thí cái gì, mới là phúc điền thù thắng?” (Quý vị xem Đức Phật khiêm tốn không? Ngài vẫn hỏi ý kiến các vị Bà-la-môn.)
“Thưa Cù Đàm (thời đó Bà-là-môn đều gọi Đức Phật là Cù Đàm, tức là cách xưng hô với Đức Phật). Vị Thánh thành tựu nhất trong số những người Bà-la-môn chúng ta được gọi là Tam minh Bà-la-môn. Để trở thành Tam minh Bà-la-môn, cần có ba điều kiện: Thứ nhất, là một người thầy tốt có rất nhiều về kiến thức và tri thức sẽ cho mọi người chánh tín chánh niệm; Thứ hai, có dòng máu Bà-la-môn thuần khiết; Thứ ba, tướng mạo đoan trang (quý vị hãy nhìn xem, trong xã hội nếu nhìn thấy một người có tướng mạo không đoan trang cho lắm thì sẽ cảm thấy trong lòng họ có tà niệm). Vậy nên người có thể bố thí Tam Minh Bà-la-môn thì có thể nhận được quả báo lớn, và bố thí cơm ăn, áo mặc bất cứ lúc nào chính là phước điền thù thắng nhất.”
Sau đó, Đề-bà-đạt-đa hỏi ngược lại Phật Đà: "Thưa Cù Đàm, Ngài nghĩ như thế nào mới là Bà-la-môn chân chính? Như thế nào mới là thành tựu Tam minh? Bố thí cho người nào để có thể đạt được quả báo lớn? Như thế nào mới là thời cơ thích hợp để bố thí? Bố thí như thế nào mới là phước điền thù thắng?"
Đức Phật nói: "Này Bà-la-môn, người thiện tri giải thoát, người có thể giải thoát tất cả tham, mới là Bà-la-môn chân chính (nghĩa là Phật Đà nói cho ông ấy biết, một người không tham chính là Bà-la-môn chân chính), người có được túc mệnh thông suốt ba đời (nếu người này có thể hiểu được kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, có thể hiểu được những đạo lý này chính là túc mệnh thông), người có thể thấy được thiên nhãn thông của tất cả các chúng sinh (có thể biết được tất cả mọi thứ của tất cả chúng sinh ngày nay, niềm vui của quý vị hôm nay, nỗi buồn của quý vị hôm nay, phiền não của ngày hôm nay và hạnh phúc của ngày hôm nay, đều có thể nhìn rõ nhìn thấu, chính là người có được thiên nhãn thông), người lậu tận thông có thể đoạn hết phiền não (một người có thể đoạn hết phiền não, tức là người có thể loại bỏ hết tất cả phiền não. Chúng ta không cần phiền não, không sợ hãi, chúng ta không cần những thứ không phải là một phần năng lượng tích cực mà chúng ta nên có. Con người không nên có phiền não, không nên có bi thương, không nên khóc lóc, mà mỗi ngày nên sống trong tiếng cười. Tuy nhiên, con người chúng ta mỗi ngày đều mang trên mình đủ mọi khổ nạn. Những phiền muộn, ưu thương và thống khổ hàng ngày khiến chúng ta không thể tìm được cửa về nhà. Vậy nên chúng ta không thể trở thành người có được lậu tận thông), tức là bậc Thánh nhân đã đạt được Tam minh. (Nói cách khác, có thể dứt bỏ. Có được thiên nhãn thông, túc mệnh thông, quý vị chính là một vị Thánh giả. Thực ra dùng ngôn từ hiện tại mà nói, người có thể nhìn xa, nhìn thấu và người có thể buông bỏ, thì họ chính là siêu nhân và là một vị Thánh nhân.) Quý vị có thể bố thí cho một vị Thánh giả như vậy bất cứ lúc nào, đó là quả báo lớn nhất và là phúc điền thù thắng nhất. Nói cách khác, ngày nay có thể ở cùng với Thánh nhân và có thể hiểu được những điều này, nghĩa là quý vị đã có được vô thượng Quang minh Bồ Đề. Vì vậy, ai gần gũi với trí tuệ và trí tuệ Bát nhã đều có thể học hỏi thêm, thấy nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn, học cách buông bỏ và nghĩ đến vô thường, bởi vì trên thế gian này hết thảy đều là vô thường. Quý vị thường nghĩ rằng "Những gì tôi có hôm nay sẽ mang lại cho tôi sự mất mát vào ngày mai, và những gì tôi mất mát hôm nay sẽ mang lại những gì tôi có được trong tương lai”.
Đức Phật thường hoằng hóa cho chúng sinh ở vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc. Có lần Ngài dạy các vị Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, các ông nên suy nghĩ về tính vô thường của tất cả các pháp, và truyền bá rộng rãi ý tưởng về vô thường (tức là Đức Phật dạy cho chúng ta: Này các hài tử, các đệ tử, các con phải luôn nghĩ rằng mọi vật trong thế giới này đều sẽ qua đi, mọi thứ đều vô thường và không tồn tại lâu dài, vì thế hãy nghĩ về vô thường). Nếu đã suy nghĩ về nó và truyền bá rộng rãi tư tưởng về vô thường, thì các con có thể cắt đứt được tham ái của mình về cõi dục.”
Điều Đức Phật đã nói với các đệ tử của Ngài là thế này: Nếu tâm quý vị luôn tràn ngập những ý nghĩ vô thường, quý vị có thể cắt đứt được sự tham ái trong cõi dục. Mọi người hãy thử nghĩ xem, có phải như thế này không? Chúng ta yêu thích một thứ gì đó, nhưng thật ra sau khi chúng ta yêu thích thì nó lại mất đi, thứ như thế này “Tôi muốn”, khi đòi cho bằng được về nhà thì lại đặt nó ở đó, thứ kia “Tôi cũng muốn”, khi lấy về lại để đó và nó sẽ biến mất, bởi vì khi muốn được rồi, thì bước tiếp theo là vứt nó đi, hoặc cho đi, hoặc là bị hỏng. Vì thế, người nghĩ đến vô thường, thì họ sẽ không tham lam mà đem cho người khác, không quan trọng nữa. Cho nên có rất nhiều nam, nữ xinh đẹp, họ chỉ có một loại tham niệm mà thôi. Sư phụ muốn đưa ra ví dụ cho mọi người: Nếu một người đàn ông đẹp trai, anh ta hy vọng rằng tất cả các cô gái ở trước mặt anh ta sẽ chú ý đến anh ta để thỏa mãn lòng tự trọng của anh ta; Nếu có một cô gái trông tương đối xinh đẹp, cô ấy hy vọng rằng tất cả các chàng trai sẽ chú ý đến cô ấy. Tốt nhất là hãy để mắt đến cô ấy và theo đuổi cô ấy. Đây là một loại tham ái, theo thời gian sẽ trở thành thói quen, chỉ cần có người không nhìn cô ta, thì cô ta sẽ lập tức trở nên không vui.
Vì vậy, lời dạy của Đức Phật cách đây 2500 năm đã dạy chúng ta điều chúng ta nên chú ý đến ở nhân gian là gì - chúng ta nên buông bỏ những phiền não trong lòng và cắt đứt sự dính mắc của mình vào các cõi Sắc và Vô sắc. Nghĩa là ở cõi người, thực ra chúng ta cũng có cõi Sắc và cõi Vô sắc. Hãy suy nghĩ mà xem, ở nhân gian có một số người sống rất hạnh phúc. Họ muốn thứ gì có thứ đó, họ muốn mua bất cứ thứ gì họ muốn, cần có thứ gì liền có ngay. Đây chẳng phải họ đang sống trong cõi Sắc giới rồi sao? Tưởng tượng đến thứ gì họ liền có thể có được thứ đó, họ đã sống trong cõi trời Vô sắc rồi. Khi ấy, Đức Phật yêu cầu tất cả chúng sinh hãy diệt trừ vô minh. Những sở hữu này đều đi kèm với vô thường, phải luôn luôn nghĩ đến vô thường. Nếu quý vị coi điều này như vật sở hữu vĩnh viễn của mình, thì quý vị sẽ có vô minh – tức là không hiểu biết.
Sự kiêu ngạo sẽ dẫn đến phiền não. Nhiều người cảm thấy rằng họ có thể coi thường người khác và cảm thấy mình cao quý hơn người khác một khi họ đã có danh có lợi và kiếm được nhiều tiền, điều này sẽ dẫn đến phiền não. Nếu một số người không tôn trọng người khác, họ sẽ đánh mất sự tôn trọng của người khác đối với họ và điều này sẽ dẫn đến phiền não; lòng kiêu hãnh của chính mình sẽ khiến người khác coi thường, điều này lại làm tăng thêm phiền não.
Tam minh là trí tuệ của một vị đã chứng Thánh Quả A La Hán. Sau khi tịnh chỉ hơi thở, nhập Tứ thiền thì người đó hướng tâm đến Tam minh. Tam minh là thành tựu cuối cùng của bậc đã chứng Thánh Quả A La Hán. Khi đã có Tam minh thì người đó đã hoàn tất việc tu tập của mình: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” (trích Trung Bộ Kinh).
* Túc mạng minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống đã qua của mình và của tất cả chúng sinh.
* Thiên nhãn minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống tương lai của mình và của tất cả chúng sinh diễn biến sinh diệt như thế nào.
* Lậu tận minh: tuệ giác sáng suốt nhận biết nguồn gốc sinh ra lậu tận hoặc phiền não và đau khổ và các pháp giúp đoạn trừ lậu hoặc, phiền não và đau khổ của mình và của tất cả chúng sinh để giải thoát.
Tam minh xuất hiện cùng với Lục thông.