Tập 103

TÂM LÀ CĂN NGUYÊN CỦA CHÂN NHƯ PHẬT TÁNH

8/7/2020


Tâm bao thái hư là gì? Đó là cái gì cũng đã qua, cái gì cũng là hư ảo, tất cả hành trình ở nhân gian mà chúng ta trải qua đều có thể bao dung nó, thoạt nhìn có thể nhìn thấu được thế giới vạn vật, nó đều là hư ảo không thực. Nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch và nhìn thấu nhìn rõ, đây được gọi là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Giống như khi quý vị đứng ở một nơi xa và nhìn về phía trước một bãi cỏ trống thì quý vị mới thấy được những thứ ở cách đó vài trăm mét, mà tầm nhìn không bị cản trở và có thể nhìn bao quát được toàn cảnh. Quý vị sẽ không bao giờ có thể nhìn thấy được cảnh giới thực sự của cái thế giới Sắc này nếu hôm nay quý vị chất đầy những thứ hỗn tạp trên bãi cỏ. Ngày nay nếu như chúng ta không thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không, sẽ bị hư ảo che khuất, sẽ bị tạp niệm, tạp tư duy làm hấp dẫn quý vị. Vì chúng ta có quá nhiều thứ hỗn độn chất đầy trên bãi cỏ, nên chúng ta không thể nhìn thấy bất cứ vật gì cách xa hàng trăm mét. Bởi vì quá nhiều thứ hỗn độn và tạp niệm đã che khuất đi trí tuệ của chúng ta, khiến chúng ta rời xa cảnh giới thực sự mà lẽ ra chúng ta phải có trong suy nghĩ của mình. Chúng làm cho chúng ta mù quáng và chỉ nhìn thấy được lợi ích trước mắt của mình mà không nghĩ đến việc nên làm như thế nào để vứt bỏ những lợi ích trong tương lai, đồng thời dùng thiện niệm, thiện lợi ích chân chính làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên học Phật chỉ đơn thuần cầu điều chưa xảy ra, cầu thần thông, thì thực ra đó chính là “duyên mộc cầu cá” (trèo cây tìm cá). Muốn sửa đổi những hành vi xấu, tính cách xấu, tạp niệm tồn đọng trong nội tâm của mình ở quá khứ, quý vị phải có dũng khí đấu tranh chống lại những tạp niệm và thế giới quan phi lý trong lòng, để thay đổi bản chất của nó và chuyển hóa chính mình, giúp bản thân thoát thai hoán cốt. Có được Phật tánh đích thực, đó mới là loại tâm mà quý vị có thể thực sự nương tựa vào để ngộ ra những nguyên tắc cơ bản của Phật giáo. Khai ngộ là tâm khai ngộ, nên phải do tâm ngộ. Vừa rồi Sư phụ đã giảng cho mọi người toàn bộ về cương lĩnh của việc tu tâm.

Tiếp theo, Sư Phụ sẽ tiếp tục giảng cho quý vị biết, niệm kinh là một phần quan trọng của việc học Phật và tu tâm. Như chúng ta đã biết, bước đầu tiên trong việc học Phật và tu tâm là niệm kinh, niệm kinh phải niệm cho đến khi tâm niệm dừng lại, nghĩa là niệm đến trong lòng không có tưởng niệm, không có tưởng tượng, phải niệm đến tâm có thể niệm kinh mà niệm niệm đều có Phật thì sẽ tức thì được giải thoát. Nghĩa là đọc đến về sau: “Tôi không có dựa vào hay ỷ lại, mà cái tâm niệm kinh khởi lên trong tôi một cách tự nhiên”, ngay cả ý nghĩ niệm kinh cũng phải không có. Ví dụ như rất nhiều người niệm kinh: “Tôi muốn niệm 49 biến Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, tôi muốn sám hối nghiệp chướng nào đó của tôi, tôi đã làm sai điều gì, tôi đang sám hối nó", trong 49 biến này, mỗi một biến kinh đều đem những việc không tốt của mình ra nghĩ một lần, quý vị nói xem quý vị đọc những biến kinh này có thể sạch sẽ được không? Hôm nay quý vị nói: "Tôi muốn niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn để tiêu trừ nghiệp chướng trên thân tôi, tôi sẽ không nghĩ đến những nghiệp chướng này, tôi sẽ niệm tốt Lễ Phật Đại Sám Hối Văn", nhất tâm niệm Phật, như vậy đọc ra kinh văn sạch sẽ hơn hay là niệm mỗi một biến kinh trong đầu đều nghĩ đến chuyện vừa rồi làm sai, cảm thấy mình rất ghê tởm thì loại nào sạch sẽ hơn? Đây chính là tâm niệm. Vậy nên niệm kinh phải ngay cả ý niệm niệm kinh của mình cũng không được có: “Tôi đang niệm kinh, tôi muốn tiêu trừ nghiệp chướng của tôi", đến ý niệm như vậy của quý vị cũng không được có, thì quý vị chính là "Hồi quang phản chiếu", nghĩa là ánh sáng của Bồ Tát sẽ chiếu đến trên thân quý vị, quý vị ngay lập tức giác ngộ, thân chứng Như Lai bổn tánh. Bởi vì Phật tánh sâu trong nội tâm của quý vị và kinh văn mà quý vị niệm là hợp nhất rồi, chứ không phải xen lẫn những lý niệm và sự vật dơ bẩn cần sám hối trong đó. Đây chính là "Hoa khai kiến phật ngộ vô sinh" mà người học Phật thường nói: Hoa khai kiến phật; Ngộ chính là khai ngộ. Vô sinh của từ Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là không sinh ra bất cứ thứ gì. Niệm kinh phải niệm đến vô năng niệm, vô sở niệm: “Tôi không vì một chuyện nào mà niệm kinh", đây mới là niệm Phật Tam muội (nhất tâm).

Hôm nay Sư phụ đã giảng với quý vị như vậy, sau này quý vị có thể đạt được tiến bộ lớn trong việc niệm kinh. Tại sao có người niệm kinh, niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn mà rưng rưng nước mắt? Không phải họ đang niệm kinh, mà họ đang suy nghĩ về những điều xấu của mình, họ đang nghĩ tại sao mình lại như thế này, tại sao mình lại như thế kia, họ không thể giải thoát được, chưa hiểu được giáo lý của đạo Phật, thì làm sao đạt được trí tuệ Tam Muội? Vì vậy, niệm kinh đơn giản nhưng thực ra không đơn giản, niệm kinh tức là niệm tâm. Thế nên, khi niệm kinh quý vị nên niệm cho đến khi kinh văn không còn ở trong tâm nữa. Nếu kinh văn không ở trong tâm quý vị thì nó ở đâu? Nó ở sâu trong toàn bộ nội tâm của quý vị, chứ không phải ở cái tâm bên ngoài. Vì thế, khi miệng niệm kinh, thì trong tâm cũng phải niệm kinh. Vậy nên, nếu miệng đã niệm kinh rồi thì trong tâm cũng phải có kinh. Nếu miệng niệm kinh mà trong tâm không có kinh văn thì đó không phải là giác ngộ, đó không phải là hoa khai kiến Phật (hoa nở thấy Phật), mà đó là tiểu hòa thượng niệm kinh “hữu khẩu vô tâm” (nghĩa là niệm kinh bằng miệng chứ không phải bằng tâm). Vậy nên niệm kinh phải dụng tâm, lại phải trong tâm có kinh văn thì mới được.

Người học Phật chủ trương phá bỏ vọng tưởng của chính mình. Con người sống trên thế giới này đều sẽ có vọng tưởng: “Tôi muốn trở thành người như thế nào trong vài năm nữa?” Mỗi ngày đều tưởng tượng ra những điều viển vông và chạy theo danh vọng, giàu sang, địa vị trong Hồng Trần nhân gian, điều này sẽ khiến cảnh giới của quý vị tan biến không còn và bị biến mất nhanh chóng. Người theo đuổi danh vọng, theo đuổi sự vật hư ảo họ sẽ sớm mất đi lý trí. Miệng của họ hay mắng hay nói lung tung để đạt được mục đích của mình và họ sẽ dùng mọi thủ đoạn.

Trước Chân Như Phật tánh (cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sinh không diệt), thế giới hư không sẽ được Phật soi sáng không dấu vết. Phật Đà đã dạy chúng ta từ lâu rằng toàn bộ vũ trụ là một thế giới hư ảo, trên trái đất này lại càng hư ảo hơn, không thể tìm thấy một điều chân thật. Cũng giống như con người, những gì quý vị theo đuổi trong suốt cuộc đời cuối cùng sẽ không phải là của quý vị. Bồ Tát từ bi thường giảng tâm ở đâu và tâm nên ở đâu khi niệm kinh, nghĩa là nói cho chúng ta biết quý vị nên đặt tâm ở đâu khi niệm kinh. Nhiều người vừa nhắm mắt là niệm lấy niệm để, tâm quý vị ở đâu? Miệng quý vị vừa mấp máy, có thể thuộc lòng một biến Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, nhưng không biết mình đang niệm gì”. Tâm ở đâu? Bởi vì chỉ có tâm mới có thể kiểm chứng và thân chứng được Phật tánh chân thật nguyên thủy. Niệm kinh không dụng tâm tức là “hữu khẩu vô tâm”(miệng niệm kinh nhưng tâm không niệm). Vậy nên niệm kinh thật ra phải niệm chạm đến tâm chân thật Như Lai, tức là “Hôm nay tôi dụng tâm niệm kinh” có như thế, quý vị mới có thể tụng niệm toát ra được tất cả trí tuệ và đức hạnh mà quý vị vốn có. Niệm xong một biến kinh phải khai ngộ. Niệm xong một biến kinh phải biết tâm mình ở đâu. Niệm xong một biến kinh phải biết chuyện kế tiếp mình nên làm như thế nào, trí tuệ đức năng của quý vị liền xuất hiện. Đây chính là niệm đến sau này, phải bình đẳng tánh trí, đại viên kính trí, quý vị ở nhân gian làm bất cứ việc gì mới có thể “diệu quan sát trí” (có được trí tuệ quan sát vi diệu). (Nếu không có trí tuệ thì quý vị có thể quan sát được gì? Cái gì cũng nhìn không hiểu, cho quý vị xem rồi cũng không hiểu, nói cho quý vị biết quý vị cũng không hiểu, nên cần phải có trí tuệ quan sát vi diệu), phải có Bồ Tát thường trú trong tâm của quý vị, cuối cùng quý vị mới có thể “thành sở tác trí” (Là một Trí tuệ mà gốc là các Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Con mắt có vô minh làm cho ta say đắm, nhìn giả thành thật).

Sự ô nhiễm vô minh của nhân gian làm cho trong lòng chúng ta sinh ra vọng tâm (vọng tâm của nhiều người đều phát sinh từ sâu trong nội tâm, những chuyện không ngờ đến đều phát sinh từ nội tâm mà ra: “Ôi, tốt nhất là việc này đột nhiên gặp phải một người tốt đến giúp tôi thì hay quá rồi”. Quý vị thấy đấy, tất cả đều xuất phát từ sâu thẳm bên trong nội tâm. Chẳng hạn, nhiều người thích đổi nhà: "Ôi nhà mình tệ quá, tốt hơn hết là đột nhiên có một người vì mâu thuẫn trong gia đình mà có thể đổi nhà cho tôi, để tôi có thêm chút diện tích, để tôi có thể đổi được ngôi nhà tốt hơn một chút, để tôi có thể chiếm được lợi thế nhiều hơn”. Vọng tâm của họ đều sinh khởi từ sâu trong nội tâm, bởi vì nó không thực tế), và rồi trí tuệ đức năng của quý vị liền trở thành ý thức. Vì sao? Điều mà quý vị cho là thông minh như: “Tốt hơn hết là tôi nên đổi nhà với anh ta, để nhà anh ta nhỏ hơn một chút còn nhà của tôi lớn hơn một chút". Ý thức này trở thành ý thức của quý vị, tiếp đó cái ý thức này sẽ khiến quý vị sinh ra vọng tưởng vô minh, quý vị liền cảm thấy: "Chuyện này có gì đâu, người như thế này cũng có đấy. Tưởng vậy thôi chứ thật sự không phải? Anh ấy không muốn sống trong một ngôi nhà lớn vì cảm thấy trống trải và không thoải mái. Anh ta muốn nhỏ một chút, ấm áp một chút. Hãy nhìn xem, ngôi nhà của chúng ta thật nhỏ bé và ấm áp”, anh ấy sẽ nghĩ như vậy, nên vô minh vọng tưởng sẽ khởi lên. Sau đó, vọng tưởng này biến thành vọng tâm của quý vị đang bị lay động và nghĩ: "Có người như vậy không?" Anh ta bắt đầu chi tiền để đăng báo, và vọng tâm của anh ta lại bị “phục huân vô minh” (phục huân tức là hun đúc lặp đi lặp lại, huân tức là chuyện này không có nhưng cứ nghĩ đi nghĩ lại trong lòng). “Có khả năng… có khả năng…” Thực ra, như quý vị đã biết, trúng xổ số chính là kiểu thiếu hiểu biết lặp đi lặp lại, là cái đạo lý này). “Phục huân vô minh” của vọng tâm cho chúng ta biết rằng nếu quý vị cứ suy nghĩ về một điều gì đó, và sâu thẳm trong ý thức, quý vị sẽ nghĩ rằng điều này là thật nó có thể xảy ra. Nhiều người nói: “Tôi mua xổ số. Tôi mua một năm, hai năm, ba năm, bốn năm… Tôi mua mười năm xem có trúng hay không”. Tâm của quý vị rung động, quý vị liền sinh ra hành động, quý vị sẽ tiêu tiền không ngừng để làm việc này. Đó là câu “gieo Nhân gì thì gặt Quả nấy”. Vì quý vị đã gieo trồng Nhân này nên cái Quả mà quý vị nhận được sẽ là thất vọng, theo đạo Phật gọi là “Nhân trả Quả”. Rồi “Quả nối tiếp Nhân”, vì không trúng nên lại mua tiếp, lại gieo nhân: “Không thể được, lần sau tôi nhất định trúng”, lúc đó Quả lại nối tiếp với cái Nhân này. Nếu quả nối tiếp với cái Nhân này thì cái Quả mà quý vị tiếp nhận sẽ tạo ra một cái Nhân khác. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị cãi nhau với anh ta, cuộc cãi vã lẽ ra đã kết thúc, vì lần trước quý vị “nợ” anh ấy, nên lần này anh ấy mắng quý vị, xem như hai người hòa nhau, và lần sau hai người lại hỗ trợ lẫn nhau không sao cả. Thế nhưng quý vị lại mắng anh ta, lại tiếp tục gieo Nhân mắng anh ta, lần sau quý vị lại tiếp tục đợi anh ta mắng quý vị. Đây gọi là “Quả nối tiếp Nhân”. Sau đó Quả nhận được lại sinh ra cái Nhân khác. Bước tiếp theo là “Nhân khởi Quả”, Nhân mà quý vị đã gieo, rồi quả báo lại bắt đầu sinh khởi, đó gọi là “Nhân khởi Quả” – quả báo do nhân đã gieo tạo ra. Nên quý vị mới không chịu phục tùng, mà tiếp tục đấu tranh với họ. Đây là điều mà Sư phụ đang nói với quý vị. Nhiều người đã ra tòa và thắng kiện. Vụ kiện kéo dài ba năm cuối cùng cũng đã thắng, vui mừng rồi. Tiếp đó bên kia lại kháng cáo, lại tiếp tục kiện tụng thêm ba năm nữa, đây gọi là nhân quả báo ứng. Cho nên gieo nhân chắc chắn sẽ sinh ra quả báo, rồi Quả sẽ trả Nhân. Sau khi phán quyết được thông qua, quý vị dành được phần thắng; bên kia lại kiện quý vị, và sau khi họ kiện quý vị, quý vị cũng kiện lại họ, tiếp đó quý vị thắng; bên kia lại bắt đầu tấn công và gây rối quý vị… vì quả báo lại gieo xuống vạn Nhân ác, đây gọi là Nhân Nhân Quả Quả. Vì vậy, một người khi sống ở đời, chỉ cần làm điều ác với người khác hoặc gây rắc rối với người khác, thì sẽ gặp vô vàn phiền não. Liên tục lây nhiễm vào ý thức của quý vị câu "Tôi nhất định sẽ thắng, kiện cũng đã kiện được ba năm rồi, nên đối với tôi, tôi không sợ, tôi kiện thêm ba năm nữa thì đã sao", quý vị liên tục lây nhiễm vào ý thức của mình và khiến trong ý thức của quý vị khởi sinh ra hư ảo - "Tôi chắc chắn sẽ thắng"; khi vọng niệm khởi lên - "Làm sao mà tôi kiện không thắng họ? Luật sư của tôi càng kiện càng giỏi!" vọng tưởng dẫn đến tự cho rằng đúng sai và bản thân nghĩ rằng: “Cái này nhất định là đúng phải không? Tôi đã kiện nó trong nhiều năm, tôi không thể bỏ cuộc, tôi nhất định phải thắng”. Toàn bộ quá trình đã khơi dậy hoang tưởng, tự cho rằng bản thân đúng sai, đây chính là chức năng hình thành của thức thứ bảy.