Tập 101
TRỪ TÂM CẤU NHIỄM, HÀNH TỨC THANH TỊNH
(Chỉ cần loại bỏ dơ bẩn trong tâm, hành vi sẽ trở nên vô cùng sạch sẽ)
4/7/2020
Niềm vui, nỗi buồn của con người đều xuất phát từ tâm, vạn vật do tâm tạo ra. Tâm thức của quý vị đang thay đổi, tâm thức của quý vị nghĩ rằng "Tôi hiện tại rất yên tĩnh, tôi hiện tại rất yên tĩnh", có thể quý vị liền được yên tĩnh. Tâm của quý vị nghĩ rằng "Sao tôi lại bực bội như vậy, tôi không kiểm soát được nữa", thì thật sự quý vị sẽ không kiểm soát được chính mình. Đây chính là tâm của quý vị. Vậy nên, những suy nghĩ, sự phân biệt và quan niệm bên trong của quý vị sẽ gây ra những làn sóng trong tâm quý vị. Giống như một đứa trẻ khi sinh ra nó không có suy nghĩ gì, tâm của nó tĩnh lặng như đại dương. Nhưng khi lớn lên, giữa những thăng trầm của cuộc đời, đứa trẻ ngày càng tiếp xúc với nhiều thứ hơn, nên ý thức chủ quan của nó bắt đầu thay đổi, ý thức thứ sáu bắt đầu trưởng thành. Khi ý thức thứ sáu của nó dần dần phát triển và sau khi trưởng thành, nó dần biến thành thói quen tư duy, vì thế nó liền sinh ra hỷ nộ ái lạc. Tại sao gọi là thói quen tư duy? Trước đây các nhà khoa học đã làm một thí nghiệm. Họ nói với một đứa trẻ con "khóc" đi, nhưng họ lại làm bộ mặt "cười". Tiếp đó họ nói với trẻ: "Con cười đi, bây giờ con bắt đầu cười đi", nhưng họ lại làm bộ khóc cho trẻ xem. Đứa trẻ này căn cứ vào cách dạy đó, nó sẽ khóc khi họ nói "cười" và nó sẽ cười khi họ nói "khóc". Đây là một loại tư duy theo thói quen, đây là ý thức thứ sáu đang chậm rãi phát triển. Về sau quý vị tiếp nhận tư duy theo thói quen nào hay còn gọi là “hậu thiên”, quý vị liền sinh ra hỷ nộ ái lạc đó.
Ý thức thứ sáu của con người thực ra là một loại giác quan thứ sáu. Chúng ta thường nói giác quan thứ sáu là một điểm đan xen của sự tổng hợp cảm xúc. Tình cảm của con người vô cùng phức tạp, vừa có hận, vừa có si, vừa có tham, có đôi khi lại cảm thấy rất hạnh phúc. Vì sao có người mặt dày? Khi họ lừa dối người khác, mà họ vẫn đang nghĩ: "Không phải là tôi cũng đã từng bị người ta lừa dối sao? Cho nên việc tôi lừa dối anh ta là điều hiển nhiên rồi”. Tất cả những điều này, khi ý thức của quý vị - bao gồm ý thức bẩn và sạch này tồn tại trong ý thức thứ sáu, thực ra quý vị phải học cách sắp xếp cũng như hóa giải những khúc mắc, chỉnh đốn sạch sẽ các cảm xúc trong ý thức thứ sáu của mình một cách nhanh chóng trước khi chúng tiến vào ý thức thứ bảy, phải quay trở về tự tánh, trở về bản thể. Phật pháp nói đó là tìm về bổn tánh của chính mình, chỉ khi tìm về bổn tánh của chính mình, quý vị mới có thể có được Phật tánh.
Sư phụ hiện đang nói với mọi người về tư tưởng. Có nhiều điều quý vị vốn dĩ không nghĩ đến, bởi vì những lời Sư phụ nói đã khơi dậy tư duy của quý vị. Nếu Sư phụ không nói về vấn đề này, quý vị sẽ không nghĩ về nó từ khía cạnh này, đúng không? Một khi nghe Thầy nhắc đến, quý vị liền nghĩ về điều đó từ khía cạnh này, quý vị sẽ sinh tâm phân biệt đối với lời nói của Sư phụ. Một số người cảm thấy điều Sư phụ nói là đúng, trong khi những người khác cho rằng điều đó là sai. Vậy có phải đã sinh ra ý thức phân biệt đối với lời Sư phụ nói rồi không? Vậy nên bắt đầu từ “nói đúng” và “nói sai” đó chính là “cảm nhi toại thông”. Tất cả đều bắt đầu từ cảm giác. Cảm giác này của con người khiến suy nghĩ của họ dần dần thay đổi theo quan niệm nào đó về cảm giác. Ví dụ, khi tôi nhìn thấy một người nào đó, ban đầu tôi không nghĩ anh ta ăn giỏi như vậy, tiếp theo đó mỗi lần gặp nhau, tôi đều thấy anh ta ăn rất nhiều. Vậy nên, tôi dần dần bắt đầu suy nghĩ và cảm nhận được khái niệm “Ôi! Sao người này lại ăn nhiều vậy?” Mỗi lần gặp nhau đều cảm thấy "Sao lại ăn nhiều vậy" vậy thì cái "nhiều vậy" này là một khái niệm. Khi đó trong lòng tôi sẽ có sự thay đổi, ngay khi nhìn thấy anh ta, liền khởi lên một khái niệm gọi là “ăn nhiều”. Vậy nên sau khi ý nghĩ thứ nhất khởi ra, người học Phật phải biết chuyển hoá, tức là sau khi ý nghĩ thứ nhất đã khởi ra và trước khi ý nghĩ thứ hai chưa bắt đầu hình thành (giữa hai ý nghĩ với nhau) thì nhất định phải nhận thức rõ ràng, đây là một thế giới hư ảo, để dùng ý nghĩ sau chuyển hóa ý nghĩ trước của mình.
Sư phụ phải đưa ra ví dụ cho mọi người rồi, vì bài giảng rất sâu sắc. Ví dụ, hôm nay khi quý vị đang nghĩ về một vấn đề nào đó trong Phật pháp, chẳng hạn như việc ăn chay, “Ăn chay là tốt, nhưng tại sao người ăn chay lại ăn rau? Rau xanh cũng có sinh mệnh, và thực vật cũng vậy”. Được rồi! ý thức đầu tiên của quý vị đã bắt đầu suy nghĩ qua rồi”. Ý thức thứ nhất là “Ăn chay là tốt”; ý thức thứ hai là “Ăn chay thì thực vật cũng có sự sống, vậy chúng ta đang ăn thực vật có phải vậy không?” Đây chính là ý thức thứ hai. Trước khi ý niệm thứ hai bắt đầu, quý vị phải thấy rõ đây là thế giới hư ảo, tức là phải nghĩ rằng niệm thứ hai là sai lầm. Quý vị phải nhận biết cái ý nghĩ: “Chúng ta không sát sinh mà ăn chay” nên niệm thứ hai của quý vị - nghĩa là phải theo sát cái ý nghĩ này, phải hoàn toàn quay trở lại lý thuyết cơ bản về “Nhất Nguyên”, tức là quay trở lại cái lý luận “ăn chay là tốt” mà quý vị vừa nhận ra ngay từ ban đầu, và không nên khởi sinh ra giả tưởng thứ hai, sau đó thay thế suy nghĩ thứ hai bằng suy nghĩ đúng đắn thứ ba. Đây là lý do tại sao khi một số người cãi nhau, sau khi thốt ra lời chửi mắng đầu tiên, họ liền nhận ra lời chửi mắng đó là sai và tiếp đó họ sẽ nói một câu nhẹ nhàng hơn để không tiếp tục cãi nhau với người khác nữa. Khi quý vị nghe người khác nói điều gì đó không tốt về quý vị, suy nghĩ đầu tiên của quý vị là "Sao tôi lại tệ rồi? Họ lại nói những điều vô nghĩa về tôi". Khi ý nghĩ thứ hai của quý vị muốn đi chỉ trích và tranh cãi với họ, khi suy nghĩ này vẫn chưa xuất hiện trước đó, phải lập tức nghĩ đến: “Tôi phải nghĩ thông, tôi phải hủy bỏ ý nghĩ thứ hai của mình”, thì quý vị sẽ nghĩ ngay “Ai cũng bị người khác phán xét”, và sử dụng năng lượng suy nghĩ tích cực quay trở về bản thể để hủy bỏ ý nghĩ thứ hai, trên thực tế, nó có nghĩa là "tịch nhiên bất động ". Tức là quay về ý nghĩ ban đầu và đừng để ý nghĩ thứ hai làm quấy nhiễu ý nghĩ ban đầu của mình, đây gọi là “tịch nhiên bất động”. Tức là, khi một người đã bình tĩnh lại, dù có mắc lỗi ở một câu nói nào thì cũng không nên bù đắp ở câu thứ hai, càng bù càng tệ, được gọi là “tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông”.
Khi ý nghĩ thứ nhất vừa mới bắt đầu khởi lên, quý vị có thể ngay lập tức tìm thấy bổn tánh của sự vật và tìm thấy Phật tánh, sau đó chuyển suy nghĩ của quý vị đến trạng thái thanh tịnh bất động. Đó là gì? Hãy giữ suy nghĩ của mình ở nơi sạch sẽ nhất, kiểm soát trạng thái tâm lý của chính mình. Đây chính là "Chỉ quan" (ngừng quan sát) mà giới Phật giáo thường nói, bảo quý vị đừng tiếp tục nhìn nữa. Bảo quý vị "chỉ ngữ" (ngừng nói) đừng nói nữa. Đây là tham thiền, đây là tâm nhẫn nhục trong sáu Ba-la-mật. Tư tưởng quan niệm của nhà Phật nói rằng, khi ý nghĩa vừa khởi lên thì phải có tu dưỡng, phải có tâm tinh tấn nhẫn nhục, lại phải có công đức tĩnh lặng. Rõ ràng biết rằng dục niệm sẽ khiến quý vị bốc hỏa, cãi vã, nên dùng tâm bình tĩnh tĩnh lặng của mình để kìm nén cơn giận đang dâng trào trong lòng và điều chỉnh nó, từ đó hình thành tâm nhẫn nhục. Phật pháp nói đi nói lại, suy cho cùng vẫn là dạy cách làm người, nếu quý vị có khả năng thấu hiểu nội tâm này, quý vị có còn tranh cãi với người khác không? Có còn cãi nhau với người khác nữa không? Từ xưa đến nay đã có rất nhiều Cao Tăng Đại Đức chính là dựa vào nội hàm, nội tu, thiền định, để bài trừ biết bao tâm cống cao ngã mạn, bài trừ biết bao tham sân si mạn nghi khi còn tu tập ở thế gian này. Đây chính là tâm bên trong phải giống như Kim Cang Bát Nhã, như như bất động.
Hôm nay Thầy muốn kể cho mọi người nghe một câu chuyện về Phật Đà. Chúng ta biết rằng Quả khổ của đời này bắt nguồn từ ác nghiệp của đời trước, thiện nghiệp đời này có thể chiêu cảm được thiện quả của đời sau. Chính là:
Muốn biết nhân đời trước.
Xem hưởng quả đời này.
Muốn biết quả tương lai.
Xét nhân gieo hiện tại.
Có một lần, khi Phật Đà đang tuyên truyền chân lý với các đệ tử Tỳ-kheo ở trong tinh xá, thì từ ngoài cửa có một thiếu nữ được những kẻ ngoại đạo phái đến để phỉ báng Phật Đà bước vào. Thiếu nữ này đi thẳng đến trước chỗ ngồi của Phật Đà, cô ấy một tay chỉ vào bụng mình, tay còn lại chỉ vào Phật Đà nói: "Sa Môn, ông làm cho tôi đau khổ quá! Ông đã thông đồng lén lút qua lại với tôi làm cho tôi mang thai, nhưng ông lại không điếm xỉa gì đến tôi. Tôi đi khắp nơi tìm ông nhưng tìm không thấy, thì ra ông trốn ở chỗ này ung dung an lạc. Tại sao ông không quan tâm đến gia đình, mà lại đi thuyết giảng những lời vô dụng này? Rốt cuộc bây giờ ông cũng đã được tôi tìm thấy, ông sắp xếp thế nào đây?”
Tất cả đại chúng đang ngồi yên lặng nghe pháp đều bị sốc khi nghe những gì thiếu nữ nói. Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ, cúi đầu trong im lặng, không ai nói gì. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mục Kiền Liên, người có thần thông không chút hoang mang liền phát huy thần thông từ chỗ ngồi, biến hóa thành một con chuột, chạy vào trong áo thiếu nữ, cắn đứt dây thừng buộc trong bụng. Thế là, một cái chậu rửa mặt giấu ở bên trong bụng của cô rơi xuống đất. Lúc này, các đệ tử có mặt chứng kiến cảnh đó đều vui mừng và mọi ngạc nhiên nghi ngờ đột nhiên biến mất, đồng thời mắng thiếu nữ rằng: "Đồ tội nhân, vọng hưng phỉ báng, vu khống bậc thầy vô thượng chính giác của Nhân Thiên! Chỉ có đất vô tri mới chứa ác vật như ngươi." "Đúng đấy! Đúng đấy!" Mọi người có mặt ở đấy đều hô lên như vậy.
Vừa dứt lời, mặt đất đột nhiên nứt ra, ngọn lửa dữ dội phun trào, thiếu nữ rơi vào trong chiếc cày bùn lớn. Vua A Tỳ Thế chứng kiến tình cảnh này, trong lòng kinh hãi, xin chỉ thị của Phật Đà, ông hỏi: "Thưa Phật Đà, thiếu nữ này hiện tại đang ở đâu?"
Phật Đà đáp: “Tâu bệ hạ, nơi mà thiếu nữ này rơi xuống bây giờ được gọi là Đại địa ngục A Tỳ Nê Lê”.
Vua A Tỳ Thế lại hỏi: "Thưa Phật Đà! Con không hiểu. Người phụ nữ này không phạm tội sát sinh hay trộm cắp mà chỉ phạm tội vọng ngữ. Làm sao có thể đọa vào địa ngục A Tỳ được?"
Phật Đà liền khai thị: “Tâu bệ hạ! Có ba loại pháp mà Như Lai nói đến: thượng, trung, hạ. Trong đó có thân, khẩu, ý”.
"Thưa Đức Phật! Xin hỏi Ngài, loại nào là nặng, loại nào là trung và loại nào là nhẹ?"
Phật Đà khai thị: “Hành động của ý niệm là nặng nhất, hành động của lời nói là trung bình, hành động của thân là nhẹ. Tội nghiệt mà người phụ nữ này gây ra chính là thuộc về khẩu nghiệp.”
Xá Lợi Phất ngắt lời liền hỏi Phật Đà: “Thưa Phật Đà, vậy tại sao người phụ nữ này lại đến vu khống Phật Đà?”
Đức Phật nói với Xá Lợi Phất: “Trong các kiếp quá khứ, vào thời Đức Như Lai còn trụ thế ở thế gian, có hai Pháp sư Phàm và Thánh. Thánh sư tên Vô Thắng, bởi vì tu hành tinh tấn, chứng đắc lục thần thông, cho nên tất cả người tu hành đều cung kính Ngài; vị Phàm sư còn lại chỉ là một pháp sư bình thường tên là Thường Quan, kém xa pháp sư Vô Thắng về công phu tu hành. Hơn nữa, tập khí thế tục của vị pháp sư này rất nặng, thường cáu kỉnh, bởi vậy người khác đối với Ngài đều không coi trọng lắm. Vào thời điểm đó, có một trưởng lão địa phương tài phú chấn động ở vương thành (nghĩa là một trưởng lão rất giàu có trong kinh thành), và trong nhà có một hiền phụ rất nổi tiếng (nghĩa là có vị phu nhân vô cùng đức hiền) tên là Thiện Huyễn Nữ, bà vừa đức hạnh vừa xinh đẹp. Thiện Huyễn Nữ đối với người tu hành đều tôn kính cúng dường, nhất là đối với pháp sư Vô Thắng bà càng đặc biệt cung kính hơn, bà luôn chọn những món ăn ngon nhất để cúng dường hàng ngày. Đây là vì pháp sư Vô Thắng tu hành công phu tinh tấn, từ đó đạt được phúc báo xứng đáng. Cái nhìn của người bình thường thường có Sắc, có tâm phân biệt và không bình đẳng, Thiện Huyễn Nữ đối với người tu hành tuy rằng có tâm cung kính cung dường, nhưng cái nhìn của bà đối với người tu hành vẫn có tâm phân biệt, không thể đối đãi bình đẳng như nhau. Bởi vậy đối với người tu hành tương đối kém như pháp sư Thường Quan, thì vị Thiện Huyễn Nữ này không có vẻ thành kính như vậy (vì bà ấy có tâm phân biệt khác nhau đối với các pháp sư), tuy bà ấy cũng cúng dường như nhau, nhưng trên phương diện hành động cử chỉ thì có khuyết điểm chăm sóc không chu toàn, thường xuyên hiện ra những điều không cung kính. Điều này đối với người trước khi chưa chứng được quả vị và còn có tâm chấp trước đối với thế gian hư ảo không thực như pháp sư Thường Quan đương nhiên sẽ cảm thấy bất bình, nên tin đồn được lan truyền. Vị pháp sư Thường Quan này gặp ai ông cũng luôn có chút bịa đặt nói Thiện Huyễn Nữ cùng Vô Thắng pháp sư có mối quan hệ thầm kín, cũng cùng là đồ vật cúng dường nhưng trong lòng lại có sự phân biệt.”
Đức Phật nói đến đây dừng lại một lúc, rồi lại nói với Xá Lợi Phất: "Ông có biết pháp sư Thường Quan kia là ai không?"
“Thưa Đức Thế Tôn, con không biết.”
“Đã từng có một đời chính là tiền thân của ta. Hiện tại tuy rằng đã thành tựu quả vị Phật, nhưng tai ương còn chưa dứt hết, vì vậy vẫn phải chịu phỉ báng bởi chậu rửa mặt giả bụng bầu.
Câu chuyện này nói cho chúng ta biết, nghiệp báo vô cùng đáng sợ. Vậy nên người tu hành chúng ta nhất định phải chú trọng tu hành khẩu nghiệp.
Một người nếu muốn thành Phật thì phải rèn luyện tấm thân kim cang bất hoại của mình, thân này trên thực tế chính là tâm của chúng ta. Muốn "khứ chỉ thành khí, khí tức tinh hảo”, điều này có nghĩa là người học Đạo, phải loại bỏ dơ bẩn trong tâm mình, đừng để nó bị nhiễm ô, tức là "khứ tâm cấu nhiễm, hành tức thanh tịnh hĩ", có nghĩ là chỉ cần loại bỏ dơ bẩn trong tâm, thì hành vi sẽ trở nên vô cùng sạch sẽ. Vậy nên trước khi chưa học Phật, con người thường hay nổi giận. Sau khi học Phật, chúng ta hiểu rõ lý lẽ rồi thì sẽ không tức giận, bởi vì con người khi không hiểu rõ lý lẽ mới phát ra "lửa vô minh". Tuy nhiên bất cứ sự tức giận nào đều biểu hiện vi phạm tinh túy của Phật pháp. Thế nên người học Phật chân chính sẽ không nổi giận, người học Phật chân chính sẽ không quá khẳng định cái nhìn của bản thân, nghĩa là phải trừ bỏ chấp trước, có như thế cả đời mới ít hối hận.
Cảm ơn đại chúng. Được rồi, chúng ta hẹn gặp lại trong chương trình tiếp theo.