PHI HỮU PHI VÔ, TU XUẤT MINH ĐIỂM

TẬP 15 : 14/03/2020


Chúng ta thường nghe chuyện chứng đắc quả A La Hán trong các câu chuyện Phật giáo, nhưng thực ra “chứng đắc” là một loại ngộ tánh, một loại khai ngộ. Nếu quý vị tu cho đến khi không rò rỉ (vô lậu) không để cho công đức bị rò rỉ, thì quý vị đã thành công. Còn một loại không rò rỉ khác nữa đó là quý vị phải rò rỉ cho hết sạch (lậu tận), phải để cho phiền não của mình rò rỉ sạch, để cho thống khổ của mình rò rỉ sạch, lậu tận, để cho dục vọng của mình rò rỉ sạch. Tiếp tục tu, tu đến cuối cùng sẽ tu ra một điểm sáng xuất hiện, giống như một quả bóng sáng chói, một quả bóng trí tuệ sáng chói, như vậy điều này trong Phật pháp giới được gọi là “minh điểm”. Minh điểm này chính là điểm sáng trong tâm, “việc gì tôi cũng có thể giải quyết được, việc gì tôi cũng có giải pháp”, điểm sáng này chính là điểm sáng trí tuệ của quý vị. Sau một thời gian dài, trong mắt quý vị sẽ thấy “người này là người tốt, kia là người xấu”, “việc này tôi có thể làm, việc kia tôi không thể làm”, sau đó trong tâm sẽ có một đốm sáng, và đốm sáng này chính là điểm ánh sáng. Điểm ánh sáng này sẽ làm cho quý vị nhìn thấy ánh Phật quang của Amala thức, thức thứ chín trong tâm mình, và quý vị sẽ minh tâm kiến tánh, sẽ cảm thấy thờ ơ với mọi thứ trên nhân gian. Biết rằng tất cả những điều này đều là không quan trọng, những điểm sáng của quý vị sẽ ngày càng tích lũy nhiều hơn, càng tích càng lớn và khi tích lũy được một lượng trí tuệ nhất định, một lượng bát nhã nhất định thì sẽ trở thành “đàn thành”

{mandala} trên đầu quý vị. Nhiều người không biết vì sao trên đầu chư Bồ Tát luôn có những vòng tròn hào quang, đó chính là điểm ánh sáng của các Ngài, là “đàn thành” của các Ngài, là kết tinh trí tuệ, kết tinh bát nhã của các Ngài. Nếu quý vị có điểm sáng của trí tuệ bát nhã, quý vị có thể “thần hành đạo”, tức là tinh thần của quý vị có thể đi đến Tứ Thánh Đạo. Không tranh giành với người khác bất cứ thứ gì, không cướp đoạt của người khác bất cứ thứ gì, tinh thần của quý vị có thể giải quyết mọi phiền não trên đời, mặc dù thân quý vị còn ở thế

gian, nhưng tinh thần của quý vị đã được giải thoát, và đã đi vào Tứ Thánh Đạo, tức là một vị A La Hán, tức là đã thành Phật Bồ Tát.

Ở nhân gian đôi khi chúng ta rất muốn lên thiên đường, nhưng chỉ có thể lên thiên đường trong giấc mơ. Khi quý vị mơ thấy mình đang ở trên thiên đường, đó có thể là pháp thân của quý vị, khi người khác mơ thấy quý vị, đó cũng có thể là pháp thân của quý vị. Có thể nhìn thấy thân thể ở nhân gian của quý vị, đó là một báo thân - thân chịu báo. Thấy hóa thân của mình biến thành pháp thân, và từ từ dùng trí huệ của mình thăng lên cảnh giới Tứ Thánh Đạo của Bồ Tát, vậy thì quý vị sẽ minh tâm kiến tánh.

Phi hữu phi vô (không phải có cũng không phải không), quý vị cho rằng mình là người hay là Bồ Tát ở nhân gian? Người khác nói không biết. Mọi việc quý vị làm, người khác đều gọi quý vị là Bồ Tát. Bởi vì quý vị luôn giúp đỡ người khác, không tính toán chi li, có thể nhẫn nại, có thể hy sinh cho người khác, quý vị chính là một vị Bồ Tát. Thế thì quý vị đã là Bồ Tát rồi sao còn có cái thân? Quý vị là người, tại sao cảnh giới lại cao như Bồ Tát? Vậy rốt cuộc quý vị là Bồ Tát hay là người đây? Phi hữu phi vô (không phải có cũng không phải không) phi tâm phi Phật (không phải tâm cũng không phải Phật), đây chính là sự nâng cao của cảnh giới. Có một số người tốt, quý vị đã không coi họ là một con người nữa rồi, họ suốt ngày làm việc thiện và giúp đỡ người khác, họ không còn giống người thường nữa, họ là một vị thánh nhân, cho nên khái niệm là như vậy. Tinh thần của họ khiến chúng ta có được vui vẻ và hạnh phúc, điều đó không thể diễn tả bằng lời, mà là cảm giác. Cũng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài giúp đỡ và yêu thương chúng ta, đó không phải là điều chúng ta có thể hiểu bằng lời, cũng không phải hoàn toàn là cảm giác của chúng ta không đâu, mà đó chính là sự biết ơn từ trong tâm chúng ta. Vì chúng ta cầu xin một điều rất nhỏ, Bồ Tát

đều hữu cầu tất ứng, Vì vậy, chúng ta còn ngôn ngữ nào để có thể giải thích và hiểu được sự chăm sóc tỉ mỉ (vô vi bất chí), quan ái từ bi của Bồ Tát đối với chúng ta nữa đây? Con người sống trên thế giới này. Tu hành phải hiểu được trí tuệ là gì. Nếu quý vị không hiểu trí tuệ thì dần dần sẽ mất đi trí tuệ, quý vị không hiểu như thế nào là từ bi thì dần dần trở nên độc ác, quý vị không hiểu được như thế nào gọi là giúp đỡ người khác thì dần dần không thể giúp được chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng để sống trên thế gian, chúng ta cần phải “diệu dụng nhi hoá chi” - diệu dụng Phật pháp để chuyển hóa thành trí tuệ của chúng ta. Phật pháp là trí tuệ tốt nhất của con người chúng ta, nó có thể giúp chúng ta khắc phục mọi phiền não. Thầy đã từng nói qua, thầy khiến cho một chàng trai ở vùng Đông Bắc niệm kinh, lúc đầu cậu ấy cũng không biết niệm kinh, nhưng cậu ta thích tiết mục “Quán thấy”(tuteng) của sư phụ. Cậu ta nói: “Sư phụ, thầy xem thật chính xác.” Thầy nói với cậu ta: “Chuỗi hạt Phật này thầy tặng cho cậu, cậu hãy đeo vào tay.” Cậu ta đeo vào tay và nói: “Sẽ có tác dụng gì?” Thầy nói: “Có thể phù hộ cậu mở mang trí tuệ.” Cậu ấy ở nhà thường đánh vợ, một thời gian sau cậu ấy đến và nói với thầy: “Sư phụ, có một lần con lại mất bình tĩnh, con vừa giơ tay, định đánh vợ con, cuối cùng con nhìn thấy chuỗi hạt Phật trên tay, nên con đã kiềm lại” Thầy nói: “Đây không phải là trí tuệ sao? Cậu đã có được trí tuệ sau khi đeo chuỗi hạt Phật này rồi. Cậu biết đấy, người có cái miệng không chỉ để ăn mà còn phải giải thích, thuyết minh và trao đổi cho người khác hiểu, chứ không thể dùng tay để đánh người”. Cậu ấy học được trí tuệ rồi. Vì vậy, chúng ta phải biết cách diệu dụng Phật pháp để chuyển hóa nó.

Học Phật thực sự là khởi tâm động niệm đều phải như Bồ Tát, cần tu tâm thanh tịnh. Khởi tâm động niệm nghĩa là gì? Một chút ý nghĩ xấu dấy lên trong lòng chúng ta: “Ồ, không được động, điều này sẽ làm hại mình”, “Ôi! Nếu như thế tôi

sẽ gặp xui xẻo”, trong đầu động một chút ý niệm là như vậy. Sư phụ nói cho mọi người biết, một người đàn ông muốn thành công, nếu muốn có hợp đồng lớn thì không nên có tư tưởng tà dâm, sau khi có ý nghĩ đó rồi thì hợp đồng này sẽ không thể ký được. Do đó, khi nhiều người đang làm kinh doanh, “Tôi không thể tà dâm. Như sư phụ đã từng nói qua nếu tà dâm thì sẽ gặp xui xẻo, nếu xui xẻo, công việc kinh doanh sẽ sụp đổ. Trong công ty nhiều nhân viên như vậy sao tôi nuôi nổi!” Họ tự kiềm chế mình, bởi vì lợi ích nào quan trọng hơn, để kìm hãm họ, thực ra đó chính là giữ giới.

Thầy vừa nói với mọi người rằng giới luật là để bịt kín những lỗ hổng trong công đức của mình. Hôm nay phúc khí đến rồi, chúng ta bịt kín những lỗ hổng của mình, “tôi giữ giới”, Bồ Tát rất vui, tự bản thân mình cũng rất vui, nên nhất định phải tu học ý niệm của Bồ Tát. Khởi tâm động niệm đều là Phật trên thân mình, thời gian lâu dần sẽ có đạo tràng trên thân mình. Vì vậy, sư phụ mong rằng quý vị hãy giữ gìn để cho trong tư duy và hành vi của mình có được một đạo tràng của Bồ Tát. Học Phật phải có đạo tràng, mà đạo tràng là nơi chư Bồ Tát thường lui tới. Trong tâm chúng ta luôn có đạo tràng, tương đương với việc chúng ta có một sân bay, nếu ta có được sân bay này thì máy bay mới có thể đáp xuống sân bay. Hôm nay nếu trong tâm chúng ta có đạo tràng của chư Phật Bồ Tát, thì chư Phật Bồ Tát sẽ thường đi vào trong tâm chúng ta, vậy thì trong tâm ta vừa có được chư Bồ Tát lại vừa có được cả chư Phật. Nếu trong lòng một người có Bồ Tát, có Phật, thì làm sao họ không thuận lợi được! Làm sao họ có thể không hạnh phúc được?

Hôm nay sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện khác về Đức Phật.

Năm ấy, đức Phật trú tại Trúc Viên Già Lan ở thành Vương Xá. Có một hôm, Đức Phật bảo các Tỳ kheo: “Trên đời này có bốn loại ngựa tốt. Loại ngựa tốt thứ

nhất, khi chúng ta cưỡi nó chỉ cần giơ roi lên và nó nhìn thấy được bóng roi da là nó lập tức sẽ thiện quan hành sự, biết chạy hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải, đều thuận theo lòng người điều khiển (vì một khi chúng ta giơ roi lên, không cần quất nó, nó sẽ đi tiếp). Đây là con ngựa tốt thứ nhất trên thế gian.”

Đức Phật nói tiếp: “Này các vị Tỳ kheo, trên đời lại có loại ngựa tốt không có khả năng kinh sát giật mình nhận ra bóng roi khua qua khua lại (nghĩa là còn có một loại ngựa tốt là nó không nhìn thấy bóng roi của người đánh xe giơ lên) nhưng nếu roi của người đánh xe hơi chạm vào lông và đuôi của nó, nó có thể lập tức kinh sát (tức là đột nhiên giật mình nhận ra ý nghĩ của người điều khiển), hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải, đây là loại ngựa thứ hai trên thế gian.” Đức Phật nói tiếp: “Này các vị Tỳ kheo, nếu con ngựa tốt này không thể nhận ra bóng roi, cũng không thể thuận theo ý nghĩ của người điều khiển bằng cách chạm vào lông đuôi của nó, mà cần lấy roi quất vào da thịt của nó thì nó mới có thể phát giác được hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải. Đây là con ngựa tốt thứ ba trên thế gian.”

“Này các vị Tỳ kheo”, Đức Phật nói tiếp: “Nếu không thể nhận thức được tâm niệm của người đánh xe như ba loại ngựa tốt phía trên, mà phải lấy dùi sắt đâm vào thân cho đến nát xương tủy của nó rồi mới thấy được tâm niệm của người đánh xe, hơn nữa người điều khiển xe ngựa này phải dắt xe ngựa đi suốt quãng đường, để loại ngựa này có thể đi nhanh hay chậm, trái hay phải tùy theo ý niệm của người đánh xe, đây là loại ngựa thứ tư trên thế gian.”

Trong thời kỳ Chánh Pháp, có bốn loại thiện nam tử tồn tại trên thế gian. Loại hiền thiện nam tử thứ nhất là người nghe nói có người vì bệnh tật, khó khăn, thậm chí tử vong, sau khi nghe người ta đau khổ vì sinh lão bệnh tử trong lòng

liền sanh tâm bố uý (tức là tâm khủng khiếp sợ hãi), và chiếu theo chánh tư duy để tinh tấn học tập chăm chỉ, giống như con ngựa tốt có thể được thuần phục bằng cách nhìn vào bóng roi da (nó có thể tiến lên khi nhìn thấy bóng của roi da), đây là loại thiện nam tử đầu tiên ở thế gian. Đức Phật dùng điều này để làm ví dụ, chỉ ra rằng có thể điều phục bản thân, có thể nhìn thấy những thiếu sót của người khác và nghĩ về chính mình để sửa chữa những thiếu sót của mình ngay lập tức thì thuộc loại hiền thiện nam tử.

Loại hiền thiện nam tử thứ hai, ở trên đời này là họ không thể vì nghe nói có người bệnh tật, khó khăn, thậm chí tử vong, mà sanh tâm sợ hãi (cũng có nghĩa là họ nghe người khác nói: “Người này chết rồi, người kia sinh bệnh rồi, rất đau khổ”, họ không coi trọng), họ tu hành chưa tinh tấn, họ phải tận mắt thấy người khác bị khổ vì sinh, lão, bệnh, tử mới biết sợ mà nổ lực tinh tấn, loại người này như Đức Phật đã nói “Ngựa tốt chỉ có thể điều phục bằng cách chạm vào lông đuôi của nó, thì mới có thể thuận theo tâm của người điều khiển” Đây là loại người hiền thiện nam tử thứ hai, trong Chánh Pháp biết tự điều phục để đắc thiện. Có một số người nghe được người khác nói và thay đổi ngay lập tức. Đôi khi thầy nói với các con rằng: “Con xem kìa, ai ai ai đó không ổn rồi, xui xẻo rồi, các con hãy biết tự mình tranh thủ thời gian”, có người không cảm nhận được, đợi đến khi người đó tận mắt nhìn thấy “thật đấy, người bạn học này bị ốm rồi” thì người đó mới lưu tâm. Đây là loại thứ hai.

Đức Phật tiếp tục nói, nếu một hiền thiện nam tử không thể vì nghe thấy hoặc tận mắt chứng kiến có người vì sinh, lão, bệnh, tử và sinh tâm sợ hãi mới có thể tinh tấn tu hành, mà là nhất định phải tận mắt chứng kiến nỗi đau hoặc là cái chết của những người thân cận hay bạn bè của mình ở trong thành hoặc trong bộ lạc, họ mới sinh loại tâm khủng khiếp sợ hãi này, mới có thể tinh tấn tu tập với

Chánh Pháp tư duy, giống như loại ngựa tốt thứ ba, phải bị quất roi vào thân xác mới có thể điều phục, mới có thể tinh tấn, loại này thuộc hiền thiện nam tử thứ ba.

Loại hiền thiện nam tử thứ tư là loại như thế nào đây? Đó là không nghe không nhìn thấy nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử mà người khác bị gánh chịu. Cũng như nhiều người nói “ai ai ai đó chết rồi” (họ nói) “Liên quan gì đến tôi? Đâu phải tôi chết đâu”, như nhiều người bảo “người này rất khổ”, (họ nói) “Liên quan gì đến tôi? Đâu phải tôi khổ đâu”. Chỉ khi họ đích thân cảm nhận được thân thể già, khổ, đau của mình. Khi sắp chết mới nghĩ lại “Tôi sinh tâm chán ghét, tôi muốn ra đi, tôi sợ hãi và không muốn chết”, lúc này họ mới nổ lực tính tấn. Cũng như bao người mắc bệnh ung thư, họ mới cố gắng nỗ lực niệm kinh hàng ngày vậy, loại người này cũng giống như loại ngựa tốt thứ tư, phải chịu đau đớn thấu xương mới có thể điều phục. Cũng có nghĩa là, chỉ khi bản thân họ đau rồi thì mới thay đổi. Vợ họ ốm rồi, họ cũng không thay đổi, con họ bị ốm, họ cũng không có cảm giác đau, chỉ khi bản thân họ bị đau, họ mới nghĩ “Tôi phải ăn chay, tôi phải tụng kinh”.

Đây là hạng hiền thiện nam tử thứ tư. Trên thực tế, phải tự bản thân họ cảm nhận được, như vậy họ mới có thể điều phục tốt bản thân. Đây là câu chuyện được Đức Phật kể lại trong Kinh A Hàm.

Sư phụ hy vọng mọi người phải điều phục nội tâm của mình, tu tâm tu lên cảnh giới cao hơn, dần dần giải thoát đau khổ và dần dần thấu hiểu người khác. Hiểu được nỗi đau của người khác, chúng ta mới không đi soi mói người ta, biết được nỗi buồn của người khác, chúng ta mới không chạm vào nỗi buồn của họ. Đừng đợi đến khi có người làm chúng ta đau khổ, bản thân mình bị đau, u buồn, thì

khi đó mới nghĩ đến “Tôi phải tinh tấn, lần sau tôi không được nói họ nữa”. Giống như nhiều người khi cãi nhau mắng tổ tiên của người khác, bị người ta đánh, khi bị đau, thì họ mới biết sau này mắng người không được mắng trưởng bối của người khác, đạo lý cũng giống như vậy. Tại sao bị người khác đánh, họ mới chịu thay đổi? Đây chính là không có trí tuệ. Vì vậy, người không có trí tuệ sẽ sinh ra đau khổ và buồn phiền. Mong rằng mỗi người học Phật chúng ta phải có được trí tuệ, phải học được lòng đại từ đại bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, từ bi chúng sinh, nhất định sẽ có được một cuộc sống hạnh phúc.

Hôm nay bài thuyết “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng xin tạm dừng tại đây. Cảm ơn đại chúng.