TÁNH KHÔNG NGUYÊN SƠ, TỰ HỮU BẢN TÁNH
---- 25/03/2020, khai thị < Bạch Thoại Phật Pháp> tập 22
Cuộc đời thực chất là một cơ chế tuần hoàn, chính là một chu trình trong lục đạo luân hồi. Con người khi sinh ra vốn đã khổ, rồi dần dần mới bắt đầu hiểu thế nào là ngọt ngào. Những cảm nhận của chúng ta luôn hiện hữu trong tâm: Khi còn trẻ, chúng ta cảm thấy rất vui vẻ, nhưng rồi dần dần bắt đầu nhận ra rằng có rất nhiều điều mình mong cầu nhưng không thể đạt được – đây chính là câu khổ vì cầu không được mà Phật pháp giảng dạy, đã dần dần xuất hiện Còn có, khi còn trẻ, chúng ta có rất nhiều lý tưởng và hoài bão, nhưng nếu không thể thực hiện được, nó cũng mang lại cho chúng ta vô vàn đau khổ. Đến khi bước vào giai đoạn trung niên, khi đã có gia đình, chúng ta bắt đầu hình thành quan điểm và tư duy riêng. Khi đó, chúng ta không thể chấp nhận quan điểm của cha mẹ, cũng không thể hòa hợp hoàn toàn với bạn bè hay đồng nghiệp – điều này dẫn đến một loại khổ khác, chính là nỗi đau trong tâm hồn.
Khi tốt nghiệp rồi chúng ta lại có cảm giác như cuối cùng cũng tìm được một không gian tự do – nghĩ rằng đã đến lúc có thể vẫy vùng, thể hiện tài năng. Nhưng khi đi làm, chúng ta lại gặp phải vô số phiền não mà không ngờ được, đó là những mâu thuẫn với đồng nghiệp, những tranh chấp với bạn bè… Vì khác biệt lớn nhất giữa con người với nhau chính là sự khác nhau về tư tưởng và quan điểm. Hơn nữa, do nhận thức về cùng một sự việc không giống nhau, nếu không biết cách xử lý đúng đắn, chúng ta lại rơi vào đau khổ một lần nữa.
Dần dần, chúng ta cảm thấy người khác không hiểu mình, sự nghiệp bắt đầu gặp trắc trở, lại tiếp tục đau khổ. Rồi khi tuổi tác lớn hơn một chút, chúng ta lập gia đình, nghĩ rằng hôn nhân sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng rồi lại nhận ra rằng quan điểm của người mình yêu không giống với mình, từ đó rơi sâu vào đau khổ trong hôn nhân. Khi mâu thuẫn gia đình ngày càng nhiều, chúng ta càng trở nên chấp trước, luôn cho rằng mình đúng, còn người khác sai. Sau những tranh cãi trong gia đình, chúng ta lại phải đối mặt với nỗi khổ từ con cái, không lý giải được con cái, con cái cũng không hiểu chúng ta. Sự bất đồng này ngày càng lớn, khiến chúng ta phải gánh chịu thêm những nỗi đau trong lòng mà không thể giãi bày. Đến khi con cái trưởng thành, chúng dần dần từ bỏ thói quen, tính cách, lời dạy dỗ của cha mẹ. Khoảng cách thế hệ ngày càng xa, và chúng ta lại tiếp tục gánh chịu nỗi khổ của sự xa cách và bất đồng.
Đây chính là điều mà sư phụ muốn nói với mọi người: Trên thế gian này, dù là vật chất hữu hình hay vô hình, chỉ cần có tình cảm, chỉ cần liên quan đến cảm xúc con người, thì đến cuối cùng, tất cả đều trở thành không. Không ở đây có nghĩa là những thứ không thực chất, những thứ khiến ta đau khổ vì không thể nắm bắt hay thấu hiểu. Vậy nên, nhiều người thường thắc mắc: "Tại sao thời thơ ấu lại hạnh phúc, nhưng càng lớn lên lại càng đau khổ?" Đây chính là quy luật tất yếu của cuộc đời – cũng chính là luân hồi.
Sư phụ muốn nói với mọi người rằng, trong thế giới vật chất, mọi thứ đều trải qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không. Điều này không chỉ áp dụng cho con người mà còn cho tất cả hiện tượng hữu sinh và vô sinh trong thế giới vật chất – cuối cùng, tất cả đều trở thành không. Ví dụ, một ngôi nhà hay một chiếc xe, đến một thời gian nhất định, nó cũng sẽ dần dần xuống cấp, hư hỏng, mục nát, trở nên vô dụng, rồi cuối cùng tan biến vào hư không. Những thứ vật chất mà chúng ta đang sở hữu hoặc từng có, sớm muộn gì cũng sẽ mất đi. Cũng giống như tình cảm con người – có lúc chúng ta từng dành tình cảm sâu đậm cho một ai đó, nhưng theo thời gian, khi vật chất đổi thay, lòng người cũng dần trở nên xa cách, trầm lặng. Ông bà nội, ông bà ngoại từng yêu thương, chăm sóc chúng ta, đó là những điều đã từng hiện hữu một cách chân thực. Nhưng rồi theo quy luật thành, trụ, hoại, không, cuối cùng, tất cả đều biến mất. Thực chất, điều này giúp ta hiểu rằng: tất cả những gì tồn tại (hữu) rồi cũng sẽ trở thành vô, và tất cả những gì là vô cũng từng bắt nguồn từ hữu. Đây chính là chân lý trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” (Sắc chính là không, không cũng chính là sắc.)
Vậy nên, một người có trí tuệ khi nhìn nhận sự vật trong thế gian này sẽ không chấp trước vào một quan điểm cố định. Họ hiểu rằng: hôm nay có, có thể đang ấp ủ sự mất đi trong tương lai; hôm nay không có, có thể đang gieo mầm cho sự hiện hữu sau này. Trong thế giới vô hình, thứ thực sự tồn tại chính là linh hồn, bởi vì nó là vĩnh cửu. Dù thân xác không còn hoạt động, dù hơi thở dừng lại, linh hồn vẫn tồn tại. Linh hồn là bất diệt. Còn những thứ thuộc về thế giới vật chất chỉ là sự sở hữu tạm thời, vì chúng đều tuân theo quy luật thành, trụ, hoại, không, rồi sẽ tan biến. Trên thế gian này, dù là vật chất hữu hình hay vô hình, tất cả đều đang dần dần biến mất. Vì vậy, trong Phật pháp, chúng không được gọi là “có” (hữu), mà chỉ được xem là tạm thời, là hư không. Chỉ có những giá trị tinh thần như linh hồn mới được coi là chân hữu, chân không. Khi quý vị nắm được chính linh hồn mình, khi quý vị có thể xử lý, thấu hiểu và vượt qua mọi khó khăn trong lòng, lúc đó, quý vị mới thực sự đạt đến cảnh giới "chân không diệu hữu"
Chúng ta cần lưu ý rằng, khi tu luyện tâm, không được cố chấp, đặc biệt là không được cố chấp vào khái niệm “không”. Rất nhiều người hay nói: “Tôi đã thông suốt, tôi đã hiểu ra, tôi đã nhập “ Không” môn rồi”, nhưng ngay cả khi họ xuất gia, họ vẫn chưa biết “không” là gì, “chân không” là gì. Bởi vì cần hiểu rằng, bản chất thực sự của “không tánh” vốn dĩ là không có thực, là ảo ảnh, không chịu được thử thách của thời gian; trong khi linh hồn chân thật của chúng ta thì có thể chịu đựng được thử thách của thời gian. Vì vậy, chúng ta không nên bận tâm quá mức về việc có “Không” hay không, chỉ cần tập trung tu luyện cho tốt. Nếu có người nói: “Tôi nhất định sẽ tu luyện cho đến khi bản thân trở nên trống không, tôi nhất định sẽ làm cho mình trở nên trống rỗng”, thì người đó thực ra đang bám víu vào khái niệm “không”. Giống như một đứa trẻ nói: “Mẹ ơi, con không muốn chơi đồ chơi nữa”, điều đó cho thấy đứa trẻ vẫn còn nghĩ đến đồ chơi trong đầu. Nếu thật sự không cần đồ chơi, nó sẽ chẳng nhắc đến, chẳng nghĩ đến nữa, vì tư duy ấy đã biến mất, đó mới chính là sự buông bỏ thật sự. Đó mới là ý nghĩa thật sự của “trống không”.
Người trong tâm có Phật thì sẽ có tâm Phật. Quý vị thấy đó, những người học Phật thường xuyên giúp đỡ người khác, thực ra đó là vì tâm họ đang làm việc của Phật. Chỉ khi quý vị thành Phật, quý vị mới có Phật tâm. Nhưng nếu hôm nay quý vị có tâm Phật, sẵn lòng giúp đỡ người khác, từ bi với chúng sinh, thì ngay trong khoảnh khắc ấy, quý vị đã có Phật tâm rồi. Những điều này tựa như Phật mà chẳng phải Phật, tựa như tâm mà chẳng phải tâm, không phải là Phật, cũng không phải là tâm của quý vị. Vậy đó là gì? Đó chính là một loại trí tuệ Bát Nhã đã được khắc sâu trong bát thức điền của quý vị, là một sự thấu hiểu, một khái niệm quan trọng nhất về Phật pháp đã in sâu vào nội tâm. Mà khái niệm này không còn đơn thuần chỉ là một khái niệm, cũng không phải là một lý tưởng, mà đã trở thành một diệu pháp, một sự huyễn hóa giúp cho quý vị khi gặp liền tự động tưởng tượng ra sự lý giải, từ đó quý vị sẽ đi thực hành. Đây chính là "dĩ không phản tánh”. Nghĩa là khi quý vị thực sự thấu suốt mọi điều, cũng chính là lúc quý vị tìm thấy bản tánh của mình.
Buông bỏ tất cả, không tranh giành với người khác, không chấp trước - đó là lúc quý vị tìm thấy tánh không và bản tánh chân thật của mình. Nghĩa là bản tánh của quý vị phải “ hoàn tịnh”. Vậy hoàn tịnh nghĩa là gì? Chính là trở về với bản tánh nguyên sơ, trở về với sự thanh tịnh vốn có. Hãy thử nghĩ xem, khi còn nhỏ, tâm hồn chúng ta trong sáng biết bao! Nếu vô tình làm hỏng đồ của người khác, chúng ta sẽ không trốn tránh mà lo lắng hỏi: "Mẹ ơi, bố ơi, con làm hỏng đồ rồi, nếu dì của bạn biết thì phải làm sao đây?" Nhưng nếu cha mẹ dạy ta: "Đừng quan tâm, người ta không biết đâu", thì ngay khoảnh khắc đó, bản tánh của chúng ta đã bị ô nhiễm. Chỉ có khi còn nhỏ, khi còn trẻ, tâm chúng ta trong sạch là từ trong bản tánh thiện lương mà có. Nhưng khi lớn lên, chúng ta bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, thị phi của ngũ trược ác thế, dần dần trở nên thực dụng, đánh mất sự thuần khiết trong tâm, và rồi mất đi ngộ tính minh tâm kiến tánh. Vì vậy, Bồ Tát dạy chúng ta phải tìm lại bản tánh của chính mình, đó gọi là "dĩ không phản tánh". Khi đó, chúng ta mới có thể minh tâm kiến tánh.
Đừng quá chấp trước vào tánh không của vật chất bên ngoài. Bất kỳ sự vật nào cũng có tánh không, điều này rất đơn giản, chẳng có gì kỳ lạ cả. Vì sao? Bởi vì thử hỏi, có vật gì tồn tại mãi mãi mà không trở về với hư không? Có việc gì có thể vĩnh viễn không đổi thay? Một ngôi nhà dù kiên cố đến đâu, vài trăm năm sau cũng phải dỡ bỏ xây lại. Một con người dù sống lâu đến mấy, trăm năm sau cũng phải rời khỏi nhân gian. Tất cả đều có thời hạn của nó. Trong dòng chảy của thời gian, đừng chấp trước vào sự trống rỗng của vật chất bên ngoài, cũng đừng chấp trước vào có hay không trong nội tâm của chính mình. Khi quý vị không còn chấp trước vào việc nội tâm có hay không, mọi thứ sẽ tự nhiên mà viên mãn.
Nhiều người lúc sắp ra đi, vẫn còn vướng bận, không buông được: "Tôi còn nợ người này một lời xin lỗi, còn chưa trả hết tình nghĩa với người kia…" Thực chất, đó chính là chấp trước. Họ có thể đã buông bỏ vật chất bên ngoài, nhưng lại không thể buông bỏ sự có và không trong tâm. Chúng ta ai cũng từng mắc lỗi với người khác. Hãy thử nghĩ xem, trong suốt cuộc đời, chúng ta đã bao lần làm sai? Đến cuối đời, khi nhìn lại, mới chợt nhận ra: "Tôi có lỗi với người này, tôi áy náy với người kia…". Thực ra đây chính là sự cố chấp. Nhưng chính sự cố chấp này đã khiến chúng ta không thể đạt được tánh không. Khi quý vị không buông được, nghĩa là còn thấy mắc nợ người khác, trong tâm vẫn còn những điều không thanh tịnh, điều này sẽ khiến quý vị mất đi tánh không vốn có trong bản tánh của mình.
Sư phụ hy vọng mọi người có thể hiểu rằng, mỗi người chúng ta đều cần tìm thấy tánh không trong sự tự nhiên. Trong tự nhiên nghĩa là gì? Nghĩa là một người tốt, dù mỗi ngày quét dọn sân chung cho hàng xóm, họ không nghĩ mình đang làm việc thiện, cũng không cho rằng đây là việc tốt hay xấu. Ngày qua ngày, anh ấy cứ quét dọn, quét dọn. Một năm trôi qua, anh ấy vẫn quét dọn như vậy. Bất kể người khác khen hay chê, anh ấy vẫn tiếp tục. Một thời gian dài sau đã khiến anh ấy hình thành thói quen, khiến anh ấy cũng không cảm thấy việc quét dọn là tốt hay xấu, cũng không để ở trong lòng, cũng không cảm thấy bản thân đang làm việc tốt hay đang giúp đỡ người khác. Đây là việc làm rất tự nhiên của anh ấy. Lâu dần, năm năm, mười năm, hai mươi năm - Quý vị nghĩ xem, liệu người ấy có trở thành một người tốt thực sự, một tấm gương mẫu mực, một người đáng kính không? Đó chính là tìm thấy tánh không của tự tánh, là đạt được phẩm chất cao quý thực sự.
Nếu mỗi ngày quý vị làm những việc cao thượng, nhưng trong lòng lại không chấp vào việc mình đang làm điều tốt, không tự cảm thấy rằng: “Tôi đang làm những điều tốt đẹp, tôi đang làm cho phẩm chất của mình trở nên cao thượng hơn”, mà chỉ xem đó là điều tự nhiên, điều vốn nên làm. Bởi vì bản thân cảm thấy vốn dĩ tự tánh là trống rỗng, mà không phải làm vì danh hay làm vì lợi. Thì khi đó, quý vị đã đạt được tánh không trong bản tánh của mình.
Khi quý vị thấu hiểu được điều này, quý vị sẽ giác ngộ chân lý về tánh không của vũ trụ. Chân lý ấy là gì? Là mọi thứ rồi cũng trở về hư không. Là tất cả đều do tâm tạo. Là khổ, là không, là vô thường, bởi thế gian này vốn dĩ tất cả chỉ là khổ, là không, là vô thường. Một khi quý vị nhận ra điều ấy, quý vị sẽ không còn vướng mắc trong suy nghĩ: “Tôi phải làm điều này.” Hoặc “Tôi đang làm, nhưng tôi không mong cầu điều gì, nhưng trong tâm tôi cũng hiểu rõ tằng khi tôi làm những việc này có thể tôi sẽ đoạt được một chút danh và lợi”. Bồ Tát dạy chúng ta tu hành là để dứt trừ cả những ý niệm ấy, đó gọi là tự nhiên - là tánh không tự nhiên.
Vậy thì quý vị đã tu ra được chân lý của tánh không rồi, sau đó quý vị cũng sẽ hiểu được rằng tâm phải thanh tịnh, không tìm cầu bên ngoài.