BÁO ỨNG NHƯ HÌNH VỚI BÓNG

---- 28/03/2020, khai thị <Bạch Thoại Phật Pháp > tập 28

 

Chúng ta học Phật là để lĩnh hội tinh hoa của Phật pháp và thấu hiểu chân lý.

Sư phụ từng đọc một câu chuyện trong quyển thứ ba của Hiền Ngu Kinh, kể về những điều A Nan đã tận mắt chứng kiến và lắng nghe, cảm thấy những câu chuyện trong đó mang lại nhiều khai sáng cho những người học Phật như chúng ta. Hôm nay, sư phụ sẽ kể lại câu chuyện ấy cho mọi người.

Trong Hiền Ngu Kinh, quyển thứ ba, phẩm thứ mười sáu có ghi chép rằng: Ta, A Nan, đã tận mắt chứng kiến một sự việc như sau. Khi đó, Đức Phật đang ở Kỳ Viên tinh xá tại nước Xá Vệ. Sau khi vua Ba Tư Nặc của nước Xá Vệ băng hà, thái tử Lưu Ly lên ngôi. Ông ta là một vị vua tàn bạo, vô đạo, ra lệnh xuất binh tấn công thành Ca Tỳ La Vệ, chính là quê hương của Đức Phật, cũng là nơi sinh sống của dòng tộc Thích Ca. Vua Lưu Ly đã hạ lệnh tàn sát toàn bộ những người thuộc dòng tộc Thích Ca. Bất cứ ai mang họ Thích, hắn đều giết sạch. Vì dân số của dòng tộc Thích Ca rất đông, binh lính đã tự tay dùng đao kiếm chém giết vô số dân chúng. Không chỉ vậy, bọn chúng còn nghĩ ra một phương thức vô cùng tàn ác, đó là chôn chân những người thuộc dòng tộc Thích Ca xuống đất, khiến họ không thể cử động, rồi lùa những con voi say –đó là những con voi mất kiểm soát như kẻ say rượu – để giày xéo họ đến chết. Chúng đứng bên cạnh, lạnh lùng quan sát cảnh tượng ấy. Bằng những thủ đoạn tàn bạo như vậy, chúng đã sát hại vô số dân chúng dòng tộc Thích Ca.

Lúc bấy giờ, trong nước Ca-tỳ-la-vệ có rất nhiều phụ nữ thuộc dòng dõi quý tộc. Khi chứng kiến cảnh tàn sát thảm khốc ấy, lòng họ đau đớn khôn nguôi, không còn luyến tiếc những ràng buộc của thế gian, cũng chẳng muốn tiếp tục sống trong gia đình thế tục nữa. Vì vậy, họ đồng lòng xuất gia, trở thành những vị Tỳ-kheo ni. Nhân dân Ca-tỳ-la-vệ khi nhìn thấy những người phụ nữ ấy—dù là thuộc dòng dõi Thích-ca hay vương tộc cao quý—ai nấy đều đoan trang, phẩm hạnh cao thượng, là những bậc tôn quý nhất trong nước. Thế nhưng, họ lại có thể buông bỏ mọi dục vọng thế gian để xuất gia tu đạo. Tổng cộng có đến năm trăm người như vậy. Tất cả dân chúng trong nước đều tràn đầy cảm thán và tán thán, ai nấy đều mong muốn được cúng dường và hộ trì cho năm trăm vị Tỳ-kheo ni ấy.

Những vị Tỳ-kheo ni ấy nói với nhau: "Chúng ta tuy trên danh nghĩa đã xuất gia, nhưng chưa thực sự thâm nhập kinh pháp, chưa uống được pháp dược. Những thói quen xấu như tham dục, sân hận, si mê vẫn chưa thể diệt trừ. Chúng ta nên cùng nhau đến chỗ Tỳ-kheo ni Tu-la-nan-đà (một vị Tỳ-kheo ni rất nổi tiếng) để đảnh lễ, thỉnh giáo kinh pháp, mong rằng có thể khắc chế và tiêu trừ những tập khí xấu của bản thân." Sau khi bàn bạc, họ cùng nhau lên đường. Khi đến nơi ở của Tỳ-kheo ni Tu-la-nan-đà, họ thành kính đảnh lễ và bày tỏ: "Chúng con tuy đã xuất gia tu hành, nhưng chưa thực sự đạt được pháp bảo và cam lồ, vẫn chưa thể diệt trừ những tật xấu của bản thân. Chúng con tha thiết mong được nghe lời khai thị, chỉ dạy, để có thể giác ngộ và thâm nhập chánh pháp."

Khi Tỳ-kheo ni Tu-la-nan-đà nhìn thấy họ, trong lòng khởi lên suy nghĩ: "Những người này đều là phụ nữ xuất thân từ dòng dõi quý tộc, lẽ ra họ nên cúng dường và hộ trì cho ta. Tốt nhất là ta nên dạy họ vi phạm giới luật, để ta có thể độc chiếm y bát. Như vậy mới thực sự là điều khiến ta an tâm và vui vẻ!" Sau khi đã quyết định, bà liền nói với các Tỳ-kheo ni ấy: “ Các vị đều đến từ những gia đình danh giá, quyền quý. Nhà cửa, ruộng vườn, bảy báu (Trong các gia đình giàu có đều có bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, san hô) đều không thiếu. Ngoài ra, còn có voi, ngựa, nô tỳ, tất cả những nhu cầu trong cuộc sống đều đầy đủ. Vậy tại sao lại phải từ bỏ tất cả để xuất gia, tuân theo những giới luật nghiêm khắc của Đức Phật, trở thành Tỳ-kheo ni? Chi bằng các vị hãy quay trở về nhà, sống cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hưởng thụ ái lạc nhân gian. Khi nào muốn bố thí thì bố thí, tích lũy phước đức, ít nhất cũng có thể hưởng thụ được vinh hoa phú quý của đời này.”

Các Tỳ-kheo ni nghe xong những lời ấy, cảm thấy hoàn toàn trái ngược với những gì họ mong đợi. Vốn dĩ, họ đến đây để cầu pháp, nhưng không ngờ lại nghe những lời như vậy. Trong lòng ai nấy đều vô cùng đau khổ, bao nhiêu tâm nguyện cầu pháp bỗng chốc tan biến, mọi nỗ lực và kỳ vọng đều trở nên uổng phí. Họ buồn bã bật khóc, rồi hơn năm trăm người cùng nhau đứng dậy, rời đi trong thất vọng.

Họ lại tìm đến một vị Tỳ-kheo ni khác— nơi tu hành của Tỳ-kheo ni Vi Diệu, và thành kính đảnh lễ, hỏi thăm theo đúng nghi thức. Sau đó, họ thưa rằng: "Chúng con mới xuất gia chưa lâu, khi còn tại gia đã quen với những sinh hoạt thế tục, chìm đắm trong vô minh quá lâu. Giờ đây tuy đã cạo bỏ mái tóc, khoác áo người tu, nhưng trong lòng vẫn còn dao động, đôi khi dục niệm bùng lên dữ dội mà không cách nào tự giải thoát được. Chúng con tha thiết mong tôn giả thương xót, giảng pháp khai thị, giúp chúng con hiểu rõ nguồn gốc của những nghiệp chướng che lấp tâm trí này."

 Lúc ấy, Tỳ-kheo ni Vi Diệu liền hỏi họ: "Các con muốn tìm hiểu về nhân quả ba đời, vậy các con muốn hỏi về đời nào?" Các Tỳ-kheo ni thưa: "Quá khứ và tương lai là những điều mà chúng con không thể trực tiếp nhìn thấy, nên tạm thời chưa bàn đến. Chúng con chỉ muốn hỏi về hiện tại. Xin Ngài từ bi giảng pháp, giúp chúng con hóa giải những nghi hoặc trong lòng." Nghe vậy, Tỳ-kheo ni Vi Diệu liền khai thị: "Dục vọng cũng giống như một ngọn lửa lớn thiêu cháy rừng sâu, lan rộng vô cùng nhanh chóng, và hậu quả của nó vô cùng nghiêm trọng."

"Nếu con người đắm chìm trong dục vọng, khao khát và luyến ái lẫn nhau, thì thực chất chỉ là đang làm khổ nhau, làm ô uế lẫn nhau mà thôi. Theo thời gian, tình ái giữa nam và nữ càng ngày càng sâu đậm, nên khó dứt bỏ. Đến lúc lâm chung, họ khó tránh khỏi quả báo đau khổ trong ba đường ác ( Đó chính là Hỏa đồ khổ:bị ngọn lửa dữ trong địa ngục thiêu đốt. Huyết đồ khổ: đọa vào súc sinh, phải giết hại và ăn nuốt lẫn nhau. Đao đồ khổ: đọa vào ngạ quỷ, chịu cảnh đói khát cùng cực, bị đao kiếm hành hạ.) Cứ như vậy, đời đời kiếp kiếp, họ không thể nào thoát ra được.

Những người đắm chìm trong ái luyến gia đình, vì mê mẩn tình nghĩa vợ chồng, cùng nhau xây dựng gia nghiệp, hưởng thụ vinh hoa phú quý, mong cầu niềm vui thế gian, nên bị nhân duyên này trói buộc. Họ tiêu hao hết quãng thời gian quý báu của đời người, đến khi phải đối mặt với chia ly—sinh ly, lão ly, bệnh ly, tử ly—hoặc khi gặp tai ương, bị quan phủ bắt bớ, lao tù ập đến, họ lại càng quyến luyến vợ chồng, bịn rịn không rời. Khi phải chia xa, họ ôm nhau mà khóc, đau đớn khôn nguôi, tim gan quặn thắt, nghẹn ngào đến mức ngất lịm, rồi lại tỉnh dậy, tiếp tục dày vò bản thân, chịu đựng nỗi đau đớn tột cùng. Các con hãy nhìn xem, sự luyến ái sâu nặng với gia đình chính là do vọng tâm điên đảo ràng buộc. Cái si tình mê lầm ấy còn đau khổ hơn cả bị giam cầm trong ngục tối, không cách nào giải thoát, cũng chẳng thể nào tự tại được."

Vị Tỳ-kheo ni ấy liền thuyết pháp cho các Tỳ-kheo ni đang có mặt:

"Ta vốn sinh ra trong một gia đình ngoại đạo tu hành. Cha ta là người có địa vị tôn quý, đứng đầu trong nước. Khi ấy, có một người con của một bậc tu hành, thông minh trí tuệ, nghe nói ta dung mạo đoan trang nên đã nhờ người mai mối, mang sính lễ đến hỏi cưới. Thế là ta kết hôn cùng chàng, xây dựng gia đình và sinh được một đứa con trai. Mấy năm sau, cha mẹ chồng ta lần lượt qua đời. Lúc ấy, ta đang mang thai đứa con thứ hai, liền nói với chồng: ‘Giờ thiếp đang mang thai, ngày sinh đã gần kề. Khi lâm bồn, sẽ có nhiều điều bất tiện, có thể còn gặp nguy hiểm. Nhân lúc này, thiếp muốn về thăm cha mẹ đẻ một chuyến.’ Chồng ta cũng thấy như vậy là hợp lý, bèn cùng ta và con lên đường. Không ngờ, khi đi được nửa đường, ta bỗng cảm thấy đau bụng dữ dội. Không còn cách nào khác, ta đành nghỉ lại dưới một gốc cây lớn. Lúc ấy, chồng ta mệt mỏi nên nằm ngủ ở một góc khác..."

“ Đứa bé trong bụng ta đã chào đời vào nửa đêm, sản dịch cũng theo đó mà chảy ra. Mùi máu tanh thu hút một con rắn độc bò đến, và nó đã cắn chết chồng ta. Trong đêm khuya sinh nở, ta gọi chồng rất nhiều lần mà không thấy hồi đáp. Lòng ta đầy nghi hoặc, không biết đã xảy ra chuyện gì. Đến khi trời sáng, ta gắng gượng đứng dậy, đi đến nắm tay chồng thì mới phát hiện ra chàng đã bị rắn độc cắn chết. Thi thể chàng sưng tấy, lở loét, các chi bị rắn cắn đến mức rời rạc. Nhìn thấy cảnh tượng kinh hoàng ấy, ta hoảng sợ đến mức ngất lịm. Đứa con trai lớn của ta thấy cha chết thảm liền òa lên khóc thét. Nghe tiếng con khóc, ta dần tỉnh lại. Không còn cách nào khác, ta đành bế con trai lớn đặt lên vai để vỗ về nỗi sợ hãi của nó, còn đứa bé sơ sinh ta ôm trong lòng, hai cánh tay vòng qua giữ lấy đôi chân của con trai lớn. Cứ thế, vừa khóc vừa lê bước đi về phía trước..."

“ Đường vắng vẻ, nguy hiểm rình rập, suốt chặng đường ta không gặp một bóng người. Đi được nửa đường, ta gặp một con sông lớn, nước sông sâu và chảy xiết. Không còn cách nào khác, ta đành để con trai lớn ở lại bờ bên này, dặn dò nó ngoan ngoãn ngồi yên chờ ta. Trước tiên, ta cẩn thận ôm đứa con sơ sinh, từng bước chậm rãi vượt qua dòng nước sang bờ bên kia. Sau khi đặt đứa bé an toàn trên bờ, ta vội vàng quay lại để đón con trai lớn. Không ngờ, thấy ta đi tới từ xa , con trai lớn quên mất lời dặn, vui mừng chạy thẳng xuống nước để đón ta. Nhưng với thân thể bé nhỏ, làm sao nó có thể chống chọi lại dòng nước đang chảy xiết? Chỉ trong chốc lát, đứa bé đã bị cuốn trôi. Ta khóc thét, tuyệt vọng đuổi theo, nhưng vì kiệt sức, ta không thể làm gì hơn. Chỉ có thể trơ mắt nhìn con mình lúc chìm lúc nổi, rồi bị dòng nước cuốn xa dần… Lúc ấy, ta mới sực nhớ đến đứa con sơ sinh bên kia bờ sông. Vội vã quay lại, ta kinh hoàng phát hiện nó đã bị lang sói ăn thịt, chỉ thấy máu tươi vương vãi trên bờ. Ta đau đớn đến mức ngất lịm đi, mãi lâu sau mới dần dần tỉnh lại.”

“ Lòng ta trĩu nặng đau thương, chỉ biết mơ hồ bước tiếp trên con đường phía trước. Sau đó, ta gặp một vị tu hành, ông là bạn thân của cha ta. Nhìn thấy bộ dạng tiều tụy của ta, ông liền hỏi: ‘Con từ đâu đến? Sao lại rơi vào cảnh khốn cùng đến thế này?’ Ta liền kể lại toàn bộ những đau khổ mà mình đã trải qua. Vị tu hành nghe xong, xót thương ta lẻ loi cô độc, liền rơi nước mắt khóc cùng ta.  Ta bèn hỏi ông: ‘Cha mẹ con và bà con lối xóm thế nào rồi? Họ vẫn bình an chứ?’ Vị tu hành thở dài đáp: ‘Nhà con chẳng may bị hỏa hoạn. Cha mẹ và tất cả thân nhân lớn bé đều đã bị thiêu chết trong ngọn lửa ấy.’ Nghe xong, ta lại ngất lịm, rất lâu sau mới tỉnh lại. Vị tu hành thương cảm số phận ta, liền đưa ta về nhà, xem ta như con cái trong gia đình, chu cấp cho ta mọi thứ cần thiết để duy trì cuộc sống.”

“Lúc ấy, có một người tu hành khác thấy ta dung mạo đoan trang liền ngỏ ý muốn cưới ta làm vợ. Ta vốn không chịu nổi cảnh cô đơn, cũng mong có một chỗ nương tựa, nên đã đồng ý lấy ông ta. Không bao lâu sau khi thành thân, ta lại mang thai. Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, chồng ta ra ngoài uống rượu cùng bạn bè. Chiều muộn, ông ta trở về trong cơn say, đúng lúc ta đang trở dạ, một mình đau đớn trong phòng. Ông ta đập cửa ầm ầm, lớn tiếng quát: ‘Mở cửa! Mở cửa mau!’ Nhưng ta đang trong cơn đau chuyển dạ, không thể đứng dậy để mở cửa được. Thấy không ai ra mở cửa, hắn ta tức giận đến cực độ, phá cửa xông vào, rồi lao vào đấm đá ta không thương tiếc. Ta cố gắng giải thích: ‘Thiếp đang sinh con, không thể ra mở cửa được!’ Nhưng lời nói của ta chẳng những không khiến ông ta nguôi giận, mà còn khiến cơn điên tiết bùng lên dữ dội. Hắn nhẫn tâm giết đứa bé mới sinh, rồi lấy bơ sữa chiên lên, ép ta ăn. Trời ơi! Hắn còn tệ hơn cả loài cầm thú! Ta làm sao có thể nuốt trôi được?! Ta từ chối, liền bị hắn đánh đập tàn nhẫn. Trong nước mắt đắng cay, ta buộc lòng phải nuốt xuống từng miếng thịt chính con ruột của mình, lòng đau đớn đến tận cùng. Ta tự hỏi: ‘Chẳng lẽ phúc báo của ta đã cạn kiệt hết rồi sao? Vì sao ta lại gặp phải người đàn ông như vậy và còn lấy hắn làm chồng?’ Chờ đến khi hắn say khướt ngủ mê man, ta trốn khỏi căn nhà địa ngục ấy và bắt đầu cuộc sống lang bạt, không nơi nương tựa."

"Ta lang bạt đến vương quốc Ba-la-nại. Một ngày nọ, khi đang nghỉ chân dưới gốc cây ngoài thành, ta gặp một vị trưởng giả vừa mới mất vợ. Ông ấy đã chôn cất người vợ quá cố tại nghĩa trang ngoài thành và vì quá thương nhớ nàng, mỗi ngày đều ra mộ khóc than. Hôm ấy, khi rời khỏi thành, ông ta bắt gặp ta và hỏi: ‘Ngươi là ai? Một nữ nhân cớ sao lại ngồi một mình bên vệ đường thế này?’ Ta bèn kể cho ông ta nghe về những bi kịch của đời mình. Nghe xong, ông lại hỏi: ‘Ta muốn mời nàng cùng vào nghĩa trang thăm mộ vợ ta, nàng có bằng lòng không?’ Ta đồng ý. Sau đó, hai chúng ta thành vợ chồng. Nào ngờ, chỉ mới vài ngày sau khi thành thân, vị trưởng giả ấy lại đột ngột lâm bệnh nặng, không thuốc nào cứu chữa, rồi qua đời. Theo luật pháp nước đó, khi chủ nhân trong nhà qua đời, lúc chôn cất phải đem theo người mà họ yêu thương nhất để bồi táng cùng. Thế là ta trở thành người tuẫn táng, bị chôn sống trong mộ cùng với chồng mình."

“Có lẽ số mệnh chưa tuyệt, ta vẫn chưa chết ngay. Đúng lúc đó, một toán đạo tặc đến đào trộm mộ, vô tình kéo ta ra khỏi nơi chôn cất. Tên thủ lĩnh thấy ta có dung mạo đoan trang, bèn giữ ta lại làm áp trại phu nhân. Mấy chục ngày sau, bọn chúng lại đi đào mộ cướp của, nhưng lần này bị chủ nhân phát hiện. Tên thủ lĩnh bị chém đầu ngay tại chỗ. Những kẻ dưới trướng mang thi thể của hắn về, và theo luật pháp của quốc gia này, ta lại bị ép phải cùng chôn chung với hắn. Ta cô độc nằm trong huyệt mộ, bên cạnh một xác chết. Ba ngày trôi qua, ta vẫn chưa chết. Đúng lúc đó, một đàn sói hoang đến bới mộ, định ăn xác người. Nhờ thế, ta lại một lần nữa thoát ra ngoài. Lòng ta tràn đầy đau khổ và tự trách: ‘Kiếp trước rốt cuộc ta đã tạo nghiệp gì mà chỉ trong vài chục ngày ngắn ngủi lại gặp phải những bi kịch thảm khốc đến thế? Chết cũng không xong, hết lần này đến lần khác lại thoát ra từ mồ chôn! Ta biết nương tựa vào đâu? Ai có thể giúp ta thoát khỏi kiếp sống lay lắt này đây?’”

“Ngay lúc đó, ta chợt nhớ đến lời đồn rằng, thái tử của dòng họ Thích-ca đã rời bỏ gia đình để tu đạo, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được tôn xưng là ‘Phật’. Ngài có thể thấu suốt nhân quả ba đời – quá khứ, hiện tại và tương lai. Vậy tại sao ta không đến bái kiến Ngài, cầu mong được chỉ dẫn, để thân tâm ta có thể quy y? Ý đã quyết, ta không do dự nữa, lập tức lên đường. Lòng ta chỉ hướng về một nơi duy nhất – Kỳ Viên Tịnh Xá, nơi mà Đức Phật đang thuyết pháp. Khi đến nơi, từ xa ta đã thấy đức Như Lai ( Chính là Đức Phật) với dáng vẻ trang nghiêm, giống như đóa hoa rực rỡ nhất giữa khu rừng xanh thẳm, lại như vầng trăng sáng nhất giữa muôn ngàn tinh tú. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn, với ba năng lực vô lậu (Thiên nhãn – thấy rõ sinh tử nhân quả của tương lai, Túc mạng – thấu suốt tiền kiếp, Lậu tận thông – đoạn trừ phiền não trong hiện tại), đã biết rằng thời điểm ta được độ hóa đã chín muồi. Ngài liền cùng chư Tăng đến tiếp đón ta.”

“Lúc đó, ta không mảnh vải che thân, vô cùng xấu hổ, chỉ biết co rúm người lại, ngồi trên mặt đất, dùng hai tay ôm lấy ngực, không dám ngẩng đầu lên vì quá đỗi tủi hổ. Đức Phật liền nói với tôn giả A-nan: ‘A-nan, hãy lấy y phục đem đến cho người phụ nữ này che thân.’ Khi nhận được y phục, ta mới dám đứng dậy, thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, cúi đầu sát đất, rồi bày tỏ hết những khổ nạn mà ta đã trải qua. Chỉ mong Thế Tôn từ bi thương xót, cho phép ta xuất gia tu học đạo giải thoát.”

"Đức Phật liền nói với A-nan: ‘A-nan, hãy đưa người phụ nữ này đến giao cho Kiều-đàm-di (tức Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo , là dì ruột của Đức Phật và cũng là vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên xuất gia).’

Tỳ-kheo-ni Kiều-đàm-di liền truyền dạy cho ta giới pháp. Ta cúi đầu đảnh lễ dưới chân bà, chính thức trở thành một Tỳ-kheo-ni. Bà giảng giải cho ta về Tứ Diệu Đế—Khổ, Tập, Diệt, Đạo—cũng như những giáo lý thâm sâu về khổ, không, vô thường, vô ngã. Trước nay, ta chưa từng nghe qua những giáo pháp vi diệu như thế. Tâm trí ta chuyên chú lắng nghe, nhiếp tâm vào một chỗ, và cuối cùng ta đã chứng đắc đạo quả. Khi đã thấu tỏ được quá khứ và tương lai, ta mới hiểu rằng mọi khổ đau cùng cực mà ta trải qua trong đời này đều là quả báo từ nghiệp chướng do ta tạo ra trong quá khứ. Nhân quả rành rành, chẳng hề sai một chút nào!"

Những vị Tỳ-kheo-ni nghe xong liền rùng mình kinh hãi. Năm trăm Tỳ-kheo-ni cùng nhau thỉnh cầu: "Sư phụ, đời trước ngài đã tạo nghiệp gì mà phải chịu quả báo đau khổ đến thế trong đời này? Xin hãy kể lại cho chúng con nghe."

Tỳ-kheo-ni Vi Diệu đáp: "Nhân quả trong chuyện này rất sâu xa, các con hãy tập trung lắng nghe. Trong một đời quá khứ, có một vị trưởng giả giàu có vô số, nhưng đáng tiếc lại không có con cái. Sau đó, ông cưới thêm một người thiếp. Người thiếp này tuy xuất thân từ gia đình bình dân, nhưng dung mạo đoan trang, sắc đẹp tuyệt trần. Vị trưởng giả vô cùng yêu thương nàng, chẳng bao lâu nàng mang thai. Đủ mười tháng, nàng sinh hạ một bé trai. Vợ chồng yêu thương lẫn nhau, đặc biệt đối với đứa con càng thêm cưng chiều, càng nhìn càng yêu quý, chẳng hề chán ghét. Người vợ cả nhìn thấy cảnh ấy, lòng dạ ngổn ngang, thầm nghĩ: ‘Ta tuy xuất thân quyền quý, nhưng đáng tiếc không thể sinh con để nối dõi. Sau này, đứa trẻ này lớn lên, nghiễm nhiên sẽ trở thành chủ nhân của cả gia đình. Toàn bộ ruộng đất, tài sản quý giá đều sẽ thuộc về nó.’”

“Ta cả đời vất vả tích lũy tài sản, vậy mà cuối cùng lại không phải của ta, cũng chẳng thể tự do sử dụng.” Lửa giận bùng lên trong lòng, ác niệm trỗi dậy. Trong lòng đại phu nhân nghĩ: “Chi bằng giết đứa bé này sớm đi để trừ hậu họa!” Ý định đã quyết, đại phu nhân liền lấy một cây kim sắt, đâm thẳng vào thóp non trên đỉnh đầu đứa bé. Mũi kim cắm sâu vào bên trong, không ai phát hiện. Chỉ thấy đứa bé ngày ngày khóc lóc, thân thể suy nhược, càng lúc càng gầy gò mà không rõ nguyên nhân. Chẳng bao lâu sau, đứa bé chết. Người thiếp đau đớn đến ngất lịm, một hồi lâu mới tỉnh lại. Nàng nghi ngờ chính đại phu nhân vì ghen tức mà giết con nàng, bèn chất vấn: “Ngươi là kẻ đàn bà độc ác! Sao lại nhẫn tâm giết con ta?”

Khi ấy, đại phu nhân liền thề độc: “Nếu ta thực sự giết con ngươi, thì trong đời sau, chồng ta sẽ bị rắn độc cắn chết, con ta sẽ bị nước cuốn trôi hoặc bị sói ăn thịt. Chính ta sẽ bị chôn sống, sẽ phải ăn thịt con mình. Cha mẹ, người thân lớn nhỏ của ta sẽ bị thiêu chết. Ngươi là thứ tiện nhân, dựa vào đâu mà phỉ báng ta,dựa vào đâu mà vu oan cho ta?” Thời bấy giờ, ai thề độc hơn thì càng dễ khiến người khác tin, bởi ai cũng tin vào nhân quả báo ứng. Nhưng bà ta lại buông lời thề độc mà không tin rằng nhân quả thực sự sẽ ứng nghiệm lên chính mình. Kết quả là tất cả những lời thề ác nghiệp đời trước đều ứng nghiệm trong đời này. Không ai có thể thay bà ấy chịu tội.

Các con có biết không? Người vợ cả năm xưa chính là ta của đời này.”

Những vị Tỳ-kheo-ni ai nấy đều sững sờ. Các bà lại hỏi tiếp: "Bạch sư phụ, vậy do nhân duyên thù thắng gì mà người có thể đích thân diện kiến thánh nhan của Như Lai, lại được Ngài dẫn chúng đón tiếp, giúp người tu hành chứng đạo, thoát khỏi khổ nạn sinh tử?"  Vi diệu Tỳ-kheo-ni trả lời: "Thuở xưa, tại vương quốc Ba-la-nại có một ngọn núi lớn tên là "Tiên Sơn." Ngọn núi này linh thiêng và tràn đầy linh khí, là nơi thường có các Bích Chi Phật, Thanh Văn, và các tiên nhân ngoại đạo đến tu hành. Khi ấy, có một vị Duyên Giác thánh giả vào thành khất thực. Trong thành, có một nữ chủ nhân của gia đình trưởng giả, khi trông thấy vị thánh giả, trong lòng vô cùng hoan hỷ, bèn thành tâm cúng dường ngài. Vị Duyên Giác thánh giả cảm nhận được tấm lòng chân thành của bà, nên sau khi thọ thực, liền thị hiện thần thông: ngài bay lên hư không, trên thân đồng thời phóng ra nước và lửa, lại có thể ngồi, nằm giữa trời cao. Nữ chủ nhân ấy nhìn thấy cảnh tượng ấy, trong lòng khởi lên nguyện lớn, nói rằng: "Nguyện đời sau ta cũng có thể tu hành đắc đạo, đạt được công đức và thọ dụng như vậy."

"Người phụ nữ nhà trưởng giả thuở ấy chính là ta của đời này. Nhờ lòng thành kính cúng dường và phát nguyện, đời này ta mới có duyên lành được diện kiến Như Lai, tâm khai ý giải, chứng đắc quả vị A-la-hán. Thế nhưng, dù đã chứng đắc A-la-hán, ta vẫn phải chịu sự dư báo từ những ác nghiệp đã tạo trong quá khứ. Giống như có một cây kim thép nung đỏ xuyên từ đỉnh đầu xuống tận lòng bàn chân, ta ngày đêm chịu đựng sự đau đớn giày vò ấy mà chẳng có điểm dừng. Họa hay phúc đều như vậy, tất cả đều là do chính ta tạo nghiệp, tự mình nhận lấy quả báo. Những nghiệp nhân đã gieo nếu như chưa thọ báo hết, chúng sẽ không tự dưng mất đi hay tiêu trừ.”

Lúc bấy giờ, năm trăm vị Tỳ-kheo-ni thuộc dòng dõi quý tộc sau khi nghe được nhân duyên ly kỳ này, ai nấy đều kinh hãi rùng mình. Họ thấu suốt bản chất của dục vọng, nhận ra rằng nó chẳng khác nào ngọn lửa dữ thiêu rụi tất cả. Tâm tham ái dục luyến nơi họ hoàn toàn tiêu trừ. Họ cũng hiểu rõ nỗi khổ của đời sống tại gia còn trói buộc hơn cả lao ngục, và những ô nhiễm, phiền não trong tâm dần dần được đoạn tận. Một lòng kiên quyết hướng về thanh tịnh giải thoát, họ liền chứng đắc quả vị A-la-hán. Tất cả cùng nhau hướng về Tỳ-kheo-ni Vi Diệu, thành kính bạch rằng: “Chúng con từ vô lượng kiếp mê đắm cảm thọ của ái dục, bị ràng buộc bởi tình luyến không thể tự thoát. Hôm nay nhờ ân đức từ bi của tôn giả khai thị mà chúng con được giải thoát khỏi vô minh sinh tử, đạt đến bờ giác ngộ.”

Đức Phật biết được chuyện này liền tán thán rằng: “Hành động của Tỳ-kheo-ni Vi Diệu thật đáng khâm phục! Một người tu hành có thể dùng chính kinh nghiệm của mình để thuyết pháp, chuyển hóa nó thành sự giáo huấn cho những ai có chí hướng tu tập, thì đó mới thực sự là con của Như Lai.” Chúng hội tại tinh xá Kỳ Viên khi nghe được câu chuyện ý nghĩa này cùng lời khen ngợi của Đức Phật, ai nấy đều hoan hỷ vô cùng, kính cẩn đón nhận và nhất tâm thực hành theo.

Đây chính là lời nhắn nhủ dành cho những người học Phật: Dù ở trong nghịch cảnh hay thuận cảnh, tất cả đều là do nghiệp mà thành. Khi chịu khổ, hãy hiểu rằng đó là nghiệp chướng của chính mình từ kiếp trước; khi hưởng phúc, cũng chính là do phước báu mình đã gieo từ trước. Vì vậy, cần phải tiêu trừ nghiệp chướng, chỉ khi nghiệp chướng tiêu trừ thì phúc huệ mới tăng trưởng. Khi phúc huệ tăng trưởng, quý vị mới có trợ duyên.

Nếu một người có tâm quang minh, thì giống như bầu trời trong sáng, dù đối mặt với bao khó khăn, gian khổ trong nhân gian, người ấy vẫn có thể vượt qua. Hy vọng rằng những người học Phật có thể hiểu được từ câu chuyện này rằng: Một người thực sự tu hành cần phải biết nhân - hiểu quả, mới có thể tiêu trừ được nghiệp chướng của bản thân, không nên mãi cố chấp vào nỗi đau khổ hiện tại, để rồi tạo thêm vô số nghiệp, dẫn đến vô tận báo ứng.

Bài giảng Bạch thoại Phật pháp hôm nay xin dừng tại đây. Cảm ơn mọi người!