TỰ CHỦ PHIỀN NÃO, BÁT NHÃ TƯƠNG TRÍ

---- 14/03/2020 khai thị <Bạch thoại Phật pháp> tập 14


Nghiệp chướng từ đâu mà đến? Sư phụ nói với mọi người rằng, nghiệp chướng chính là do chấp trước phân biệt trong hư vọng mà sinh ra. Vì vậy, con người không nên chấp trước, “Cái này là của tôi, cái kia là của họ.” Người đời phải học cách chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn người tu học Phật phải học cách chịu trách nhiệm trước nhân quả. Hôm nay quý vị có nhân quả không? Đã gieo nhân, thì có quả không?

Con người nếu giác ngộ sớm thì sẽ sớm đạt được ngộ đạo. Nhưng rất nhiều người sống trên thế gian mà không học Phật, chỉ đến khi bệnh tật ập đến mới nhận ra thân này là khổ.

Nhiều người khi còn khỏe mạnh, không có bệnh tật gì, thì không cảm thấy trân quý. Nhưng khi lưng bắt đầu đau… Quý vị thấy đấy, nhiều người khi đôi chân còn khỏe mạnh, họ đi đứng, nhảy nhót mà không hề nghĩ rằng một ngày nào đó chân mình sẽ không còn linh hoạt. Đến khi không đi được, phải chống gậy, họ mới nhận ra: “Thì ra đây là khổ”. Nhưng rồi khi khỏi bệnh, họ lại quên mất. Họ chưa từng nghĩ rằng: “Hôm nay tôi có thể đi lại tốt như thế này là nhờ trước đó tôi đã chăm sóc và giữ gìn sức khỏe, vì vậy tôi mới có được kết quả như hôm nay”. Đối đãi với người khác cũng vậy, chính vì quý vị đối xử tốt với người khác nên quý vị mới nhận được sự hồi đáp, đó chính là nhận được sự đối đãi tốt từ người khác. Vậy nên, khi còn khỏe mạnh, hãy nghĩ đến lúc bệnh tật. Đó chính là một quan điểm triết học. Khi gặp khó khăn, hãy tin rằng tương lai sẽ tốt hơn. Khi quý vị đang hạnh phúc, hãy nghĩ rằng có thể sau này sẽ có lúc phải đối mặt với khổ đau. Làm gì cũng nên để lại một phần trí tuệ, vì trí tuệ này sẽ giúp quý vị cân bằng giữa khổ và lạc, giữa hạnh phúc và đau thương.

Con người không mong cầu thì việc tự thành. Nhiều người nói rằng tôi cầu nguyện mỗi ngày nhưng không linh nghiệm, nhưng khi buông bỏ, đến một ngày nào đó cơ hội đến thì việc liền thành công. Chỉ cần quý vị nỗ lực, cuối cùng thành công chắc chắn sẽ thuộc về quý vị. Vì vậy, chỉ cần chăm chỉ gieo trồng, không cần lo lắng về thu hoạch, đó chính là trí tuệ.

Cuộc sống của chúng ta vốn dĩ không quá đau khổ, không có quá nhiều phiền não hay âu lo. Nhưng khi ham muốn quá mạnh, khi tính toán quá nhiều, chúng ta lại tự gánh lên mình quá nhiều đau khổ, phiền não và lo lắng. Chính vì vậy mà dục vọng nảy sinh. Bởi lẽ, khi quý vị chịu quá nhiều đau khổ, thì mới bắt đầu nảy sinh dục vọng. “Tôi nên làm thế nào để thay đổi nó? Làm sao để không còn đau khổ nữa?” – thực ra đây cũng chính là một dạng của dục vọng.

Dục vọng có thiện dục và cũng có ác dục. Chẳng hạn như: “Tôi muốn thay đổi bản thân để trở nên tốt hơn…” – loại dục vọng này tuy chưa đạt đến cảnh giới cao, nhưng đó là thiện dục. Hay như: “Hôm nay tôi nhất định phải giúp con gái đỗ vào một trường trung học danh tiếng” – đây có phải là dục vọng không? Có. Vậy nó có phải là ác dục không? Không. Nó chỉ là một thiện dục mang tính cá nhân.

Sư phụ nói với quý vị rằng, nếu quý vị đạt đến một cảnh giới nhất định, quý vị sẽ buông bỏ bớt dục vọng. Chỉ cần chăm chỉ gieo trồng! Hãy tận tâm giúp con cái học bài, rồi nói với con: “Con à, nếu con đỗ, đó là phúc báo của con. Nếu con chưa đỗ, cũng đừng nản lòng, chúng ta tiếp tục cố gắng.” Chỉ những ai biết kiểm soát và tiết chế dục vọng mới có thể hưởng thụ hạnh phúc thực sự ở nhân gian. Quý vị thử nghĩ xem, một người không có dục vọng có hạnh phúc không?

Nếu ăn cơm mà món gì cũng ăn được, có thấy vui không? Nhưng nếu ăn mà chê món này, không thích món kia, thì ngay cả khi ăn cơm cũng không thấy ngon miệng, bởi vì trong lòng đầy dục vọng, đầy khổ đau, đúng không? Mọi người rủ nhau đi chơi: “Chúng ta cùng đi chơi nhé?” “Tôi không muốn đi, vì có người kia, tôi không thích.” Quý vị xem, chính dục vọng này đã khiến quý vị đánh mất bao nhiêu niềm vui! Đây chính là không thể tùy duyên. Chỉ những ai không so đo tính toán mới có thể cảm nhận được sự hòa hợp trong nhân gian, hiểu được thế nào là tùy duyên như Bồ Tát. Chuyện gì cũng vô tư mà đón nhận, gặp nhau một lần là bớt đi một lần, hôm nay mọi người có duyên làm bạn, cùng nhau làm chút việc, đó chính là phúc báo, chứng tỏ chúng ta vẫn còn duyên với nhau. Chỉ khi không so đo tính toán, thực sự buông bỏ bản thân, con người mới có thể tận hưởng được tự tại và thảnh thơi trong cuộc sống.

Khi nói đến tự tại, cảnh giới lại tiến thêm một bước nữa, đó chính là giải thoát. Giải thoát là gì? Giải thoát chính là không còn phiền não. Nhiều người thường nghe các pháp sư giảng rằng: “Con phải giải thoát, con phải buông bỏ.” Nhưng không ít người lại thắc mắc: “Thưa Sư phụ, giải thoát là gì? Buông bỏ là gì? Phải buông bỏ cái gì?” Giải thoát, như Sư phụ vừa nói, đó chính là không còn phiền não. Hôm nay quý vị có phiền não không? Quý vị nghĩ không thông, nhưng nếu nghĩ thông suốt rồi, quý vị sẽ giải thoát. Buông bỏ là gì? Buông bỏ chính là không còn vướng bận suy nghĩ. Quý vị nói quý vị không nghĩ đến nó, nhưng việc đó vẫn còn ở đó. Vậy Sư phụ hỏi quý vị: “Nếu quý vị nghĩ đến nó thì việc đó có biến mất không?” Không. Vậy quý vị có giải quyết được không? Nếu không thể giải quyết, vậy tại sao không tạm gác nó qua một bên? Sau khi niệm Kinh xong thì lại nghĩ tiếp, biết đâu sau đó vấn đề tự nhiên được hóa giải? Nếu thế, chẳng phải quý vị đã buông bỏ hay sao? Ít nhất, trong khoảng thời gian quý vị không nghĩ đến nó, quý vị đã thực sự buông bỏ, quý vị đã thực sự giải thoát. Sư phụ giảng giải như vậy, mọi người đã hiểu rồi, phải không?

Thực ra, Phật pháp chính là để giúp chúng ta giải quyết những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Vậy tinh thần thật sự của Phật pháp là gì? Chính là giúp quý vị không bị phiền não trong lòng ràng buộc, không bị dục vọng chi phối, không bị những tạp niệm thế gian làm lay động.

Buông bỏ chính là tu tâm. Giải thoát chính là có trí tuệ.

Người có trí tuệ thì có thể nghĩ thông suốt; còn nếu không có trí tuệ, làm sao có thể nghĩ thông? Có rất nhiều người phàn nàn: “Xếp hàng gì mà dài thế này, thật là khó chịu! Chỉ để mua một món đồ mà phải đợi lâu như vậy, thật phiền phức, thật bực bội.” Nhưng cũng có người lại nghĩ: “Mọi người đều như mình, ai cũng phải xếp hàng, ai cũng phải chờ đợi. Nếu người khác có thể kiên nhẫn đứng đợi, tại sao mình lại không thể?” Vừa nghĩ vậy, bỗng nhiên thông suốt, buông bỏ rồi, không còn phiền não nữa. Đây chính là buông bỏ.

Sư phụ nói với quý vị rằng, tu hành đến cuối cùng chính là có thể tự chủ được phiền não, nghĩa là tự mình kiểm soát cảm xúc và khổ đau của bản thân. Khi phiền não đến, khi nghĩ mãi không thông, khi không vui… hãy quên nó đi! “Hôm nay tôi có thể nghĩ thông suốt.” Ví dụ, hôm nay đường tắc nghiêm trọng, quý vị đã trễ giờ, lòng đầy lo lắng: “Tắc đường thế này, làm sao đi làm kịp đi làm đây?” Có nhiều người cố gắng lao lên, càng gấp lại càng bực bội—vì họ không có trí tuệ. Nhưng một người có trí tuệ sẽ ngay lập tức gửi một tin nhắn:
“Anh/chị, tôi xin lỗi, hôm nay tôi bị kẹt xe nghiêm trọng, hiện đang mắc kẹt ở đường X, nhờ anh/chị báo với tổ trưởng giúp tôi.” Xong! Thế là anh ta ngồi trên xe, thảnh thơi mà đợi, không còn lo lắng nữa. Đây chính là dùng trí tuệ để hóa giải phiền não. Mà có rất nhiều người cứ mãi bồn chồn, tính toán từng phút, cố lao nhanh đến công ty. Nhưng dù có ráng chạy vào sớm hơn năm phút, thì vừa bước vào, cả văn phòng đều thấy rõ rằng họ đã trễ giờ. Trong khi đó, người đã gọi điện báo trước, có khi đến muộn cả nửa tiếng, nhưng lại thảnh thơi bước vào, và mọi người còn tưởng anh ta vừa ra ngoài giải quyết công việc. Đây chính là trí tuệ. Người phải học cách buông bỏ.

Người có thể tiêu trừ nghiệp chướng, chính là người có thần thông. Người có thể hóa giải phiền não, chẳng lẽ quý vị nói rằng họ không có thần thông sao? Tại sao quý vị không có thần thông? Tại sao quý vị nghĩ không thông? Bởi vì quý vị còn phiền não. Tại sao người khác có thể nghĩ thông suốt? Tại sao họ có thể giải quyết vấn đề? Vì họ có thần thông. “Thần” là gì?  Là tinh thần. “Thông” là gì? Là thông suốt. Tinh thần thông suốt, chẳng phải chính là thần thông hay sao?

Hy vọng rằng mọi người có thể tinh tấn học Phật, hiểu được cách thoát khỏi nghiệp chướng, thoát khỏi phiền não, giải thoát khỏi vô minh. Tất cả đều là giải thoát. “Giải” là gì? Là tháo gỡ, buông xả. “Thoát” là gì?  Là rời xa, vượt thoát. Khi quý vị thoát khỏi phiền não, chẳng phải quý vị đã có trí tuệ rồi sao? Khi quý vị thoát khỏi nghiệp chướng, chẳng phải quý vị đã có công đức rồi sao? Khi quý vị thoát khỏi vô minh, chẳng phải quý vị đã đạt được Bát Nhã rồi sao? Tất nhiên đó chính là trí tuệ Bát Nhã. Có như vậy, quý vị mới có thể chánh tín, chánh niệm mà tu hành. Khi quý vị luôn giữ được chánh tín, chánh niệm để hành trì, tu tập đến một mức độ nhất định, chẳng phải sẽ đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác sao? Chánh Đẳng Chánh Giác chính là Bồ Tát. Và sau khi khi quý vị chánh tín chánh niệm tu hành đến Chánh Đẳng Chánh Giác, lại tiếp tục nỗ lực tu hành, cuối cùng sẽ đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó chẳng phải là Phật hay sao?

Chúng ta thường nói tu tâm rất khó, nhưng thực ra cũng rất đơn giản, chỉ cần thực hành Tứ Vô Lượng Tâm. Hãy dùng Tứ Vô Lượng Tâm để kiểm soát bản thân. Đó là quý vị phải Từ, nghĩa là luôn giữ lòng từ bi, yêu thương chúng sanh và phải Bi, nghĩa là biết xót thương nỗi khổ của muôn loài. Quý vị hãy giữ tâm hoan hỷ, gặp ai cũng vui vẻ, làm việc gì cũng an nhiên, hạnh phúc. Và Xả, chính là bố thí. Hôm nay, nếu có thể giúp người bằng tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí, chỉ cần khi nào có thể làm được hãy giúp người khác, như vậy chẳng phải quý vị đang hành Bồ Tát đạo sao? Chẳng phải quý vị đang thực hành Tứ Vô Lượng Tâm sao? Rất nhiều người than rằng:  “Tôi không thể trở thành Bồ Tát, cũng không thể thành Phật, vì tôi quá ích kỷ.” Không phải quý vị ích kỷ, mà là quý vị chưa đủ can đảm để vượt qua và chiến thắng dục vọng trong lòng mình. Nếu quý vị có thể chiến thắng được dục vọng của bản thân, quý vị sẽ có Tâm Vô Lượng.

Hãy luôn ghi nhớ trong lòng nỗi khổ của người khác, hãy biết cảm nhận những khó khăn mà họ đang trải qua. Khi thấy người khác gặp hoạn nạn, quý vị sẽ cảm thấy đau lòng. Khi biết ai đó đang chịu khổ, trong tâm quý vị sẽ luôn nghĩ: “Họ đang rất đau khổ, mình phải giúp họ vượt qua.” Hãy trao cho người khác sức mạnh! Hãy học theo Sư phụ, khi thấy ai đó đau khổ, Sư phụ luôn an ủi: “Con phải kiên trì, con phải tin rằng Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ cứu độ con.” Chính nhờ sự khích lệ ấy mà họ có thêm niềm tin, có thêm sức mạnh, và có thể tiếp tục sống tốt hơn. Có đúng không?

Hơn nữa, khi giúp đỡ người khác, quý vị phải giữ tâm hoan hỷ. Nhiều người giúp người nhưng lại khiến họ sợ hãi: "Nhìn đi, nhìn đi! Đây là báo ứng của huynh đấy! Huynh tu chưa đủ tốt, bây giờ quả báo đến rồi! Thấy chưa, mắc bệnh nặng thế này rồi! Huynh phải nỗ lực tu hành hơn nữa, nếu không, bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng! Ngay cả Bồ Tát cũng không thể thay đổi nhân quả đâu!" Nói như vậy, thử hỏi người ta còn đủ sức để sống nữa không? Đó có phải là cứu độ không? Người thật sự có trí tuệ khi giúp người phải vui vẻ, hoan hỉ, mang đến niềm tin và hy vọng. Có những người lúc nào cũng vui tươi, lúc nào cũng rạng rỡ khi giúp đỡ người khác. Thực ra, đó cũng chính là một dạng bố thí, đó là bố thí niềm vui. Họ sẽ nói: “Huynh đừng lo lắng, không sao đâu! Rất nhiều người mắc bệnh giống huynh, nhưng nhờ niệm kinh mà họ đã khỏi. Huynh xem, trước đây đệ cũng từng có bệnh, nhưng nhờ kiên trì tu tập, bây giờ đã khỏe mạnh rồi. Thật đấy! Đệ mong huynh cũng giống như đệ, hãy vui vẻ lên nhé!”

Tế bào ung thư khi nhìn thấy niềm vui đều sợ hãi! Những thứ xấu ác như tế bào ung thư, khi gặp Bồ Tát, chúng có sợ không? Chắc chắn là sợ! Có hai kiểu sợ hãi: Một là giống như khi gặp Kim Cang Bồ Tát, chúng sẽ run rẩy sợ hãi. Nếu trong tâm quý vị có Kim Cang Bồ Tát, chúng sẽ phải sợ hãi. Hai là khi Di Lặc Bồ Tát xuất hiện, chỉ cần Ngài cười vang một tiếng, chúng cũng hoảng loạn bỏ chạy khắp nơi! Vậy nên, một người pháp hỷ sung mãn cũng có thể cứu độ chúng sinh. Khi một người trở nên vui vẻ, lạc quan, quan niệm của họ sẽ thay đổi, không còn đau khổ, không còn sầu muộn, không còn tuyệt vọng nữa!

Xả đi thời gian quý báu của mình, xả đi tiền tài của mình, thậm chí xả bỏ cả sinh mạng để cứu độ chúng sinh, đây chính là chân đế của Tứ Vô Lượng Tâm, nghĩa là đó chính là ý nghĩa thật sự của nó. Nếu quý vị học theo lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, kiên trì tu tập như vậy, làm sao có thể không thành Phật? Người muốn thành Phật phải dùng tâm mà tu, chỉ có người hết lòng tu tập mới có thể chứng đắc Phật quả.

Chúng ta cần hiểu thế nào là trí tuệ—đó là trí tuệ Như Lai, chứ không phải trí tuệ thế gian. Trí tuệ thế gian luôn tính toán hơn thua, thiệt hơn: "Làm việc này theo cách này sẽ tiết kiệm hơn, đi con đường kia sẽ nhanh hơn..." Nhưng trí tuệ Như Lai thì khác, đó là đại từ, đại bi, đại trí tuệ, không phải kiểu trí tuệ của thế gian.

Trí tuệ còn được gọi là "Bát Nhã Tổng Tướng Trí". "Bát Nhã" nghĩa là trí tuệ của Bồ Tát. Trên thực tế, khi một người thật sự lĩnh hội được trí tuệ của Bồ Tát, thì đức hạnh và năng lực trí tuệ của họ sẽ được phát huy toàn diện. Giống như trong trường học, ai cũng thích ở bên một người bạn có trí tuệ, bởi vì có bất cứ vấn đề nào họ cũng có thể nghĩ ra cách giải quyết, họ luôn có cách xử lý tình huống nhờ vào trí tuệ thế gian.

"Tổng Tướng Trí" nghĩa là gì? Chính là trí tuệ của Bồ Tát, khiến cho họ có khả năng phân biệt Trí tuệ này là cao cấp hay thấp kém, trí tuệ này là vì lợi cho bản thân hay vô tư vì chúng sinh? Nếu muốn đạt được "Bát Nhã Biệt Tướng Trí", tức là trí tuệ của Bồ Tát có thể phân biệt rõ các tướng khác nhau và các dạng trí tuệ khác nhau, không giống với trí tuệ thế gian. Nếu quý vị có thể biết và hiểu rõ thói quen, tính cách của từng người, thì quý vị sẽ có được Tổng Tướng Trí—đây chính là "Bát Nhã Nhất Thiết Trí". Người thực sự có trí tuệ là người có trí tuệ trong mọi sự việc. Có người thông minh ở việc này nhưng lại khờ dại ở việc khác. Có người giỏi trong lĩnh vực này nhưng lại mù mịt ở lĩnh vực khác. Vậy nên, Bát Nhã Tổng Tướng Trí chính là trí tuệ bao trùm tất cả.

Tu hành thì nhất định phải hiểu trí tuệ, đây gọi là "Nhất pháp tương ưng". Pháp nhất định phải tương ưng. Tất cả người học Phật,  tất cả người có trí tuệ,  ai cũng đều có trí tuệ cả. Người có cảnh giới cao, người tu học tốt, thì chắc chắn có trí tuệ Bát Nhã. Pháp pháp giai thông, nghĩa là tất cả pháp đều thông suốt. Những người học Phật đều như vậy, dù theo pháp môn nào, dù là trưởng lão, thượng sư, hay đại hòa thượng, thì họ đều có trí tuệ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều cao tăng đại đức, nếu quý vị để ý những lời dạy của họ, những trí tuệ mà họ truyền lại qua pháp thí cho thế gian, thì đó đều là trí tuệ Bát Nhã, là trí tuệ cao thượng vô cùng. 

Muốn biết mình có trí tuệ hay không, hãy tự kiểm tra xem mình đã tu tâm đến mức độ nào. Nếu quý vị gặp chuyện liền đau khổ, liền phiền não, liền không thể nghĩ thông suốt, thì xin lỗi, quý vị vẫn chỉ mới vừa nhập môn. Nếu khi gặp chuyện, quý vị có thể nghĩ thông, dù có chút buồn lòng nhưng nhanh chóng vượt qua, thì quý vị đã thật sự nhập môn rồi.